quân có 26.800 người, đó là theo lời của De Barisy, người đã cộng tác với
nhà vua trong thời chiến tranh với nhà Tây Sơn.
Tàu chiến mang 16 đến 22 khẩu đại bác có 200 chiếc.
Thuyền chiến có 40 đến 44 tay chèo mang máy bắn đá cò 500 chiếc.
Thuyền lớn có từ 50 đến 60 tay chèo mang đại bác, máy bắn đá có 100
chiếc.
Binh đội thủy lục này đều luyện tập và áp dụng chiến pháp theo lỗi Âu
Châu. Còn kỵ binh thì không có vì xứ ta nhiều núi non sông ngòi, chỉ có
một ít để dùng vào việc liên lạc và bảo vệ hoàng thành.
5 – Công Vụ
Mỗi tỉnh có một số nhân viên phụ trách việc sửa sang đường xá, đê điều,
sông ngòi. Nhà vua lưu tâm nhiều hơn cả là vấn đề đê điều ở Bắc Hà, vì xứ
này hàng năm thường xảy ra việc lụt lội khiến Nhà nước phải bãi thuế cho
dân. Cuối đời vua Thế Tổ (1820) việc sửa sang đê điều ở đây mới tạm yên,
tiếc rằng việc gìn giữ vẫn thường không được chu đáo lắm nên việc lụt lội
vẫn còn xảy ra.
Các quan lộ trong nước đều được chăm nom, chỗ nào cách sông ngòi thì
quan địa phương cho làm cầu. Cứ 15.000 trượng đường thì dân được lãnh
10.000 phương gạo. Từ cửa Nam Quan vào đến Bình Thuận, cứ 4.000
trường đường có một trạm bên cạnh quan lộ để quan khách nghỉ ngơi, cả
thảy có 98 trạm, còn từ Bình Thuận vào đến Hà Tiên đã có thủy đạo.
Ở mỗi trấn Nhà nước có một kho chứa thóc gạo phòng khi đói kém hay
mất mùa để chẩn cấp hay bán rẻ cho dân.
Thành Huế được xây dựng vào năm 1813 hay 1814 đến 1820 mới xong.
Thành hình vuông chu vi tới 5 đến 6 dậm theo kiến trúc Tây Phương kiểu