Cao Miên mang theo một nhà sư cũng là đảng viên nhưng đối đãi không
được tử tế nên khi hai người về tới nội địa Việt Nam, nhà sư liền tố cáo âm
mưu chính trị của bọn Hồng Bảo. Các đảng viên của Hồng Bảo bị bắt liền
và bị tra tấn, đã khai mọi chi tiết về vụ mưu loạn kể cả chuyện cái tàu đậu ở
bờ sông Hương và chiếc tàu ở ngoài khơi không rõ quốc tịch nào, tên có
khá đông người Tiêm La, Trung quốc, Nam Kỳ và cả người Âu Châu nữa.
Đoàn người này đợi mãi không thấy ai đến liên lạc nên phải chạy ra khơi.
Việc này đã làm náo động cả kinh thành như sắp có giặc. Các nhà cầm
quyền phải ra nghiêm lịnh mới trấn tĩnh được nhân tâm. Triều đình nghị án
xử Hồng Bảo vào tội lăng trì, nhưng vua Tự Đức giảm xuống án chung
thân. Hồng Bảo đã dùng chiếc vải trải giường thắt cổ chết cho khỏi nhục
nhã. Con cháu phải đổi họ Nguyễn sang họ Đinh là họ mẹ và tài sản bị tịch
thu hết.
Thảm sử huynh đệ tương tàn của anh em vua Tự Đức đến đây chưa là
hết.
Giặc Chày Vôi: Năm Bính Dần (1886) là năm sau (Tự Đức thứ XIX),
nhà vua cho xây Vạn Niên Cơ, tức Khiêm Lăng. Dân phu, binh sĩ phải phục
dịch nhọc nhằn, vất vả. Đám người này tất nhiên không khỏi sự oán hận nhà
vua. Ở kinh bấy giờ có ba anh em họ Đoàn: Đoàn Trung, Đoàn Hữu Ái và
Đoàn Tự Trực muốn nổi lên lật đổ chính quyền đương thời. Họ khai thác
ngay lòng căm hơn của dân chúng, lợi dụng họ làm công cụ cho cuộc phản
nghịch. Họ Đoàn kết liên được với Trương Trọng Hòa, Phạm Lương lập ra
Đông Sơn Thi Tửu Hội để che đậy hành vi chính trị của mình. Họ lấy danh
nghĩa tôn phù Đinh Đạo là con ông hoàng Hồng Bảo (trên đây đã nói đến).
Như vậy ta có thể hiểu rằng việc truất ngôi cửu ngũ của Hồng Bảo có lẽ đã
khiến một phần nào nhân dân miền Trung bất mãn, bởi lòng dân thường
không ưa chuyện bỏ trưởng lập ấu đã gây nên nhiều biến cố ở các dòng vua
họ chúa. Dư luận của một vài người tông thất họ Nguyễn cho rằng động lực
trong cuộc phản nghịch này một phần là do họ Đoàn muốn mưu đồ phú
quý, lại còn có sự trả thù cho Hồng Bảo và gây thanh thế cho Tùng Thiện