Ngày 19 Bonard rời Huế về Sài Gòn và ngày 30 tháng ấy ông ta về nghỉ
ở Pháp và chết vào năm 1867.
Năm 1863 triều đình Huế lại cử Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ,
Nguyễn Khắc Đồng với một đoàn tùy tùng 63 người mang đủ gạo nước vào
Sài Gòn để nhờ tàu Pháp qua Paris.
Phái đoàn này đi từ ngày 4-6 và tới Âu Châu vào tháng 9-1863. P. Cultru
nói rằng: “Họ đến đất Pháp vừa đúng lúc Pháp đình bắt đầu chán với các
cuộc viễn chinh. Dư luận Pháp cho rằng các cuộc viễn chinh chỉ làm hao
tổn tiền tài và sinh mạng. Tuy vậy vẫn có một số nhân vật chủ trương lấy
đất Nam Việt làm thị trường và thuộc địa. Báo chí Pháp cũng bàn tán xôn
xao về vụ phái đoàn Việt qua điều đình để chuộc lại ba tỉnh miền Đông.
Sau một tháng có mặt trên đất Pháp, phái đoàn mới được sự tiếp kiến
chính thức. Trong dịp này, Pháp Hoàng đã nói một câu rất dõng dạc: “Nước
Pháp rất khoan hồng với mọi quốc gia và sẵn sàng bảo vệ các dân tộc hèn
yếu nhưng rất nghiêm khắc với những ai ngăn trở bước đi của nước Pháp”.
Nhưng viên thông ngôn là ông Aubaret vì không thạo tiếng Việt Nam đã
dịch ra “phải biết sợ nước Pháp”. Rồi người ta cho phái đoàn hay Pháp đình
sẽ trả lời triều đình Huế trong vòng một năm. Tóm lại việc sửa đổi Hòa Ước
1862 có thể nói là vẫn loanh quanh, chưa ngã ngũ bề nào.
Phái đoàn Phan Thanh Giản về nước rồi, chính giới Pháp bàn chỉ nên
giữ lấy Sài Gòn, Chợ Lớn và Vũng Tàu cùng một giải đất hẹp theo dọc
sông Đồng Nai với sự bảo hộ sáu tỉnh Nam Kỳ, xét rằng việc trực trị ở đây
sẽ gặp nhiều điều phiền toái về mọi mặt. Aubaret là trung úy hải quân của
thủy sư đô đốc Bonard, một nhân viên đã dự cuộc đàm phán về Hòa Ước 5-
6-1862 đã viết nhiều sách truyện về Nam Việt, đưa ra nhiều ý kiến và đã
được chính giới tán thành. Do đó mới có việc lập một chế độ chiếm hữu
thâu hẹp. Việc này tuy được chấp thuận nhưng còn giữ bí mật. Rồi Aubaret
được cử làm lãnh sự ở Vọng Các và sẽ là công sứ Pháp ở Huế để đề nghị
với vua Tự Đức các dự định do ông ta tạo tác nên.