Còn những khoản sau nói Khâm sứ ở Huế có quyền ra vào yết kiến nhà
vua. Từ Đèo Ngang trở ra Bắc Việt, Pháp đặt công sứ để kiểm soát công
việc của các quan ta nhưng không dự vào các việc hành chính. Hòa ước này
ký xong. Pháp rảnh tay về phía Việt Nam chỉ còn phải giải quyết với quân
đội Tàu.
Sau khi ký xong hòa ước Quí Mùi (1883) triều đình Huế cử Khâm sai
đại thần Trần Văn Chuẩn và Lai Bộ Tham Tri Hồng Phi ra Bắc Kỳ với toàn
quyền Harmand để thi hành lệnh bãi chiến nhưng quan quân của ta ở đây có
nhiều người không chịu, vì vậy việc chiến tranh vẫn tiếp tục. Cầm đầu lực
lượng kháng chiến ở Bắc Kỳ với một tấm lòng sắt đá bấy giờ là Hoàng Kế
viêm đang giữ mạn Sơn Tây, Trương Quan Đản giữ Bắc Ninh tức là hai bên
tả hữu ngạn sông Hồng Hà.
Chủ trương của Pháp chuyến này là Bình Định toàn cõi Bắc Kfy để thực
hiện cuộc bảo hộ cho kỳ được. Hạ nghị viên đã bỏ thăm chấp nhận 17 triệu
quan, ngày 18-12-1883 kauh cấp thêm 3 triệu nữa cho quân đội viễn chinh
đặt dưới quyền Đô Đốc Courbet. Tổng tư lệnh quân đội thủy lực, thêm với
ba ngàn sau trăm binh sĩ đổ bộ lên đất Bắc vào hạ tuần tháng 11-1883.
Lần này mũi dùi của Pháp nhắm vào Sơn Tây vì ở đây có chủ lực quân
của Việt Nam do hai đại tướng Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc điều
khiển. Quân Pháp chia ra hai đạo: Tướng Bichot dẫn thủy quân từ sông
Hồng Hà tiến lên tới cửa sông Đáy Tướng Belin đem lục quân do Hà Nội
xuất phát tới Sơn Tây. Quân ta mai phục ở Phú Sá từ hai hôm trước. Ngày
14-12 hai bên gặp nhau, xô xát kịch liệt. Qua ngày 15-12 phòng tuyến thứ
nhất của ta bị chọc thủng. Rồi quân Pháp vây thành Sơn Tây. Pháp không
cho quân nghỉ. Một trận long trời lở đất và rất kinh khủng đã diễn ra, như
chưa bao giờ đã xảy đến như vậy trong lịch sử chiến tranh Việt Pháp trên
đất Bắc: Chiến sự khởi từ chiều 16-12. Quân Trung Hoa tích cực chiến đấu.
Pháp nhờ có hỏa lực rất mạnh phá được vòng thành ngoài nhưng binh sĩ
mệt ngoài, tối đến phải ngừng lại.