thực mất đến hàng triệu bạc. Sáng ngày 23 quân ta rút lui khỏi Huế, xa giá
nghỉ ở Trường Thi một lát rồi lên đường đi Quảng Trị. Nguyễn Văn Tường
được lệnh ở lại thu xếp mọi việc[2]. (Tài liệu của giáo sĩ Delvaux viết trong
bài La prise de Huế của tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Huế)
Trưa hôm ấy, ông nhờ giám mục Caspard đưa ra đầu thú với thống
tướng De Courcy, Tường được đến trú tại Thương bạc viện và bị đại úy
Schmitz coi giữ. Pháp buộc ông ta nội hai tháng phải thu xếp cho yên mọi
việc. Ông Tường gửi sớ ra Quảng Trị xin rước Tam cung (bà Từ Dũ Thái
hoàng thái hậu, mẹ đức Dực Tông, bà Hoàng thái hậu là vợ đức Dực Tông
và là mẹ nuôi ông Dục Đức, Kiến Phúc và Đồng Khánh.
Một tướng Pháp tham gia trận đánh đồn Mang Cá khen quân ta thiện
nghệ phòng thủ vì các đường giao thông có đào hầm hố hoặc chẹn bằng các
chướng ngại vật. Binh sĩ nấp đằng sau những tấm phên nứa căng hai lần da
trâu mà bắn đến giờ chót mới chịu rút lui.
Trong khi đó, Thuyết đem vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị)
người Pháp treo giải 2000 lạng bạc cái đầu của ông Thuyết và ai bắt được
vua Hàm Nghi thì được thương 500 lạng.
Từ Dũ thái hậu viết thư mấy lần khuyên cháu trở về nhưng vô hiệu. Từ
Trung ra Bắc, cờ khởi nghĩa bay khắp nơi.
Sau biến cố này, mọi việc trong triều do khâm sứ Pháp điều khiển hết và
các quan ta, mỗi khi có việc gì đều nhất nhất phải hỏi ý tòa Khâm. De
Courcy cho gọi Silvestre ở Bắc vào Huế để tổ chức một chính phủ lâm thời.
Hoàng thân Thọ Xuân được cử ra quyền nhiếp chính phủ này và Nguyễn
Văn Tường điều khiển Cơ mật viện. Lúc này người Pháp thấy khó có hy
vọng dụ được vua Hàm Nghi trở về, liền đặt ông Chánh Mông là Kiên
Giang quận công theo lời đề nghị của Từ Dũ thái hậu (vua Đồng Khánh là
anh vua Kiến Phúc và Hàm Nghi[3]). Ngày 6 tháng 8 ông phải thân hành
sang tòa khâm để chịu lễ thụ phong. Vị hoàng đế này tính tình hiền lành, ưa