nghiệp đấu tranh, xây dựng bằng biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt của tổ
tiên từ 40 thế kỷ nay.
Nhớ thuở còn luân lạc bên bờ Dương Tử, mình trần khoác da thú, lặn lội
nơi sông ngòi, chúa tôi, cha con, chồng vợ, nương tựa vào nhau mà sống
cho đến khi Hán tộc quá mạnh, đẩy người Bách Việt chúng ta xuống khắp
miền Hoa Nam, kẻ lên rừng, người xuống biển não nề, bi đát vô cùng.
Trước kỷ nghuyên Thien Chúa, ông cha chúng ta lại trải thêm một cuộc phù
trầm với nửa triệu binh sĩ viễn chinh của Thủy Hoàng Đế đang tràn đầy
nhựa sống. Họ đã nuốt đứt ba chi phái Đông Việt, Mân Việt và Nam Việt,
còn lại Âu Lạc là nhóm cuối cùng của chúng ta đã chiến thắng vẻ vang và
anh dũng nên giống nòi ta mới còn sống sót đến bây giờ.
Trên mảnh đất bao la gồm những rừng núi Quảng Tây, thượng du miền
Bắc và lưu vực sông Nhị, chúng ta tái tạo lại cơ đồ, dựng triều đình riêng
một cõi, tiếc thay chẳng bao lâu lại lâm vào Hán họa để lệ thuộc Bắc
phương luôn 10 thế kỷ.
Mười thế kỷ làm tôi dị tộc, sống như trâu ngựa, toàn dân xác như vờ, sơ
như nhộng vì sự bóc lột của quan lại Trung quốc đến nỗi trai không lấy nổi
vợ, gái không lấy nổi chồng, nhân khẩu mỗi ngày một hao hụt gần như diệt
chủng. Những kẻ có chút đầu óc hơi khác ý thì bị moi gan, móc mắt, gông
cùm xiềng xích đầy mình, do đó mà gái anh thư đã có khi phải thay đấng tu
mi phất cờ cách mạng, họ Khúc, họ Ngô, thế cô mà dám đuổi xâm lăng. Tới
khi khôi phục được nguyên lực quốc gia, Lý Thường Kiệt Bắc tiến, Trần
Quốc Tuấn diệt Nguyên, Nguyễn Huệ mộng dành lại Lưỡng Quảng để thỏa
cái thù mất đất về tay Hán.
Xét các sự kiện này thì lịch sử Việt Nam thật là cái gì ly kỳ nhất, lâm ly
nhất mà cũng oai hùng đến tột bực, bởi một dân tộc nhỏ bé năm ba triệu
người trước đây mà dám ganh tài, đọ sức với một cường quốc đông gấp
trăm, giàu gấp ngàn, và là cái lò văn minh cố cựu nhất thế giới. Phải chi
thêm người người, thêm của, đất đai rộng rãi hơn nữa thì Mông Cổ vào