tạo. Điều đó nghe khôi hài kinh khủng. Mật độ các trận giao tranh vẫn
dày đặc. Không có dấu hiệu gì cho thấy tiếng súng sẽ ngừng hẳn. Đà
Nẵng trông điêu tàn như một thành phố chết. Chỗ quán nước ngày xưa
giờ là bãi đất hoang. Hàng xóm cho biết Lan đã sinh được một bé gái,
còn sống ở đâu thì không ai rõ. Tôi đã bỏ ra suốt một tuần liền, dò hỏi
khắp nơi nhưng vẫn không thu được chút manh mối nào. Đi lại trong
thời chiến là một việc mạo hiểm. Tôi có thể chết như bỡn vì một cách
nào đó không đoán trước. Tôi trở về Mỹ trong tâm trạng hụt hẫng đến
kỳ lạ...”
“... Mọi việc tưởng đã chìm trong quên lãng, mãi đến gần hai
mươi năm sau, định mệnh đã an bài cho tôi gặp Ana ở quán bar. Tôi có
linh cảm đây chính là giọt máu của mình...”
Hôm sau, tôi đem quyển nhật ký và tấm hình đưa cho Ana lúc cả
hai cùng vào bệnh viện thăm Bill. Cô nhìn tấm ảnh đến thờ thẫn. Đúng
là cô gái trong ảnh có khuôn mặt rất giống Ana, chỉ hơi khác chiếc mũi.
Bill mất đúng một tuần sau đó. Lúc hấp hối, anh tỉnh lại được mấy
phút. Tay cứ nắm chặt Ana không chịu rời. Người mỗi lúc một lạnh
dần. Mắt nhìn lạc thần, trống rỗng. Ana vừa lay người anh vừa thét lên:
“Cha!...”
Tiếng kêu của bao nhiêu dồn nén, tức tưởi. Âm thanh vỡ òa, ngân
vang đến đau đớn. Ana đổ quỵ xuống bên cạnh chiếc giường Bill đang
nằm. Người cô run lẩy bẩy. Khuôn mặt Bill dãn ra, thanh thản. Từ
trong hố mắt của anh tuôn ra những giọt nước mắt. Bill đã nghe thấy
tiếng kêu của Ana.
Có lẽ, đó là thứ âm thanh hay nhất Bill được nghe trong suốt cuộc
đời mình. Anh đã không còn điều gì nữa để chờ đợi trong cõi đời này,
ngoài cái chết. Trong phòng, tiếng khóc của Ana vang lên mỗi lúc một
rấm rứt. Nước mắt cô cứ nhỏ mãi xuống cái thân thể mỗi lúc một lạnh
giá của Bill.