thể biết được, chẳng ai có thể biết được là tôi đã phải gánh chịu những gì
đâu. Tôi đã phải sống trong tủi nhục thống khổ suốt bao nhiêu năm qua. Đời
tôi nó là như vậy đấy. Tôi không muốn nói xấu người đã khuất, nhưng sự thể
đúng là như vậy. Khoản tiền thì cũng không nhỏ lắm, nhưng mà ông Roger
cũng đâu cần phải tra đi tính lại như vậy, cứ như thể là ông ấy chỉ kiếm được
có vài trăm bạc lẻ mỗi năm vậy, ấy vậy mà thực ra Roger là một trong những
người giàu có nhất khu này ấy chứ, ấy là cậu Hammond hôm qua nói với tôi
như thế.”
Bà Ackroyd dừng lời, chấm chấm mắt bằng chiếc khăn viền đăng ten của
mình.
“Vâng, mấy khoản bà đang nói đến là gì thế?” Tôi cố khơi gợi.
“Mấy khoản tiền chết dẫm ấy. Có mấy hóa đơn tôi chẳng muốn cho Roger
xem chút nào. Có những thứ đàn ông không thể hiểu được mà. Ông ấy chắc
chắn sẽ nói những món ấy là không cần thiết. Và tất nhiên mấy hóa đơn đó
cứ thế chồng chất lên, ông biết đấy, mấy khoản nợ cứ thi nhau kéo vào…”
Bà ta nhìn tôi bằng vẻ thống thiết, như thể đang đợi tôi nói vài lời an ủi
với bà ta về cái thói quen mua sắm quái đản này.
“Đúng là hay có kiểu đấy.” Tôi đồng tình.
Rồi giọng bà ta đổi ngoắt, gần giống như đang chửi bới, “Tôi cam đoan
với ông, bác sĩ ạ, tôi lo đến sắp suy nhược thần kinh rồi. Đêm đến tôi không
thể ngủ được. Còn tim thì cứ đập thình thình. Rồi mới đây tôi có nhận được
thư của một ông Scotland, mà thực ra là hai bức thư lận, đều từ các ông
Scotland. Một của ông Bruce MacPherson, và thư kia là của Colin
MacDonald. Thật là trùng hợp ngẫu nhiên.”
“Chắc không đâu.” Tôi ngán ngẩm nói. “Họ đúng là những quý ông
Scotland thật đấy, nhưng tôi đồ rằng với kiểu làm ăn khôn lỏi ấy thì họ phải
có tổ tiên dòng dõi với người Do Thái.”
“Mười bảng cho mười ngàn chỉ tính riêng trên kỳ phiếu.” Bà Ackroyd lầm
bầm nhớ lại. “Tôi hồi âm lại cho một người trong số họ, nhưng có vẻ khó
khăn.”
Bà ta lại dừng lại.