đành phải công khai sự thật đó để đổi lấy phút giây thanh thản ngắn ngủi
cho mình.
“Theo tôi trường hợp của bà Ferrars là như vậy đấy. Áp lực tâm lý đè quá
nặng. Như người Anh các ông có câu tục ngữ ‘tham quá mà giết mất con
ngỗng đẻ trứng vàng’ vậy. Nhưng chuyện vẫn chưa dừng ở đó. Người đàn
ông mà chúng ta đang nói đến phải đối diện với nguy cơ bị vạch mặt. Và
anh ta không còn là chính mình của khoảng một năm trước. Lúc này lương
tâm của anh ta đã suy kiệt. Anh ta lại đang tuyệt vọng. Anh ta đang chiến
đấu một cuộc chiến mà mình nắm chắc phần thua, và anh ta cũng sẵn sàng
không từ một thủ đoạn nào trong tay để vùi lấp sự thật, bởi với con người
này, bị bại lộ đồng nghĩa với cả cuộc đời bị hủy hoại. Và thế là, nhát dao oan
nghiệt đã rơi xuống!”
Poirot lại trầm ngâm. Cả không gian cũng chùng xuống, như thể ông thám
tử vừa mới đọc một câu thần chú tĩnh lặng bao trùm căn phòng vậy. Tôi
không tài nào diễn tả nổi giọng điệu và cung cách lạ lùng của ông ta khi nói
những từ ngữ ấy. Từng lời phân tích lạnh lùng, và cả câu chuyện tàn nhẫn
nhưng rất thật mà nó vẽ ra, khơi gợi trong chúng tôi một nỗi khiếp sợ mơ hồ.
Poirot nhẹ nhàng tiếp tục: “Rồi sau đó, khi con dao kia được rút ra, anh ta sẽ
được trở về làm chính mình, một người bình thường và lương thiện. Nhưng
nếu như lòng tham kia lại trỗi dậy lần nữa, thì anh ta cũng sẽ lại xuống tay
một lần nữa.”
Caroline một lúc sau mới bừng tỉnh, lên tiếng, “Ông đang nói đến Ralph
Paton, những lời ông nói có thể đúng, có thể sai, nhưng ông không có quyền
kết tội một người đàn ông chưa từng gặp.”
Điện thoại bất ngờ đổ chuông. Tôi nhanh chân bước ra sảnh và nhấc máy,
“Sao cơ? Vâng. Bác sĩ Sheppard đây.”
Tôi im lặng lắng nghe đầu dây bên kia một hai phút, rồi đáp lại ngắn gọn.
Đặt ống nghe xuống, tôi trở lại phòng tiếp khách, thông báo, “Poirot, họ mới
bắt được một người đàn ông ở Liverpool. Tên anh ta là Charles Kent, người
ta tin rằng anh ta chính là kẻ lạ mặt đã đến Fernly đêm đó. Họ muốn tôi đến
Liverpool ngay lập tức để nhận dạng anh ta.”