chúng cũng biết nói, những đồ vật như bàn, ghế, chúng đều mang thông điệp
của mình.”
Rồi ông ta quay ra cửa.
“Thông điệp gì vậy?” Tôi kêu lên. “Hôm nay chúng đã nói cho ông biết
những gì vậy?”
Poirot hơi ngoảnh lại và nhướn mày, vừa ngạc nhiên vừa buồn cười, “Một
cửa sổ mở toang. Một cánh cửa ra vào bị khóa. Một chiếc ghế rõ ràng biết tự
dịch chuyển. Với cả ba thứ này, tôi đều hỏi: ‘tại sao?’ nhưng không nhận
được câu trả lời.” Ông lại lắc đầu, ngực ưỡn lên, và đứng chớp mắt nhìn
chúng tôi. Nhìn ông ta đầy vẻ tự cao quá lố. Trong đầu tôi chợt hỏi liệu ông
này có thực sự là thám tử giỏi hay không, hay là danh tiếng vang dội của
ông ta từ trước đến nay thuần là nhờ may mắn.
Tôi nghĩ chắc Đại tá Melrose cũng nghĩ như thế, vì ông ấy không giấu vẻ
khó chịu mà hỏi xẵng, “Ông có muốn nhìn thêm gì nữa không, ông Poirot?”
“Nếu được, ông chỉ cho chiếc tủ bạc đựng hung khí trước khi nó bị lấy
mất thì tốt quá. Sau đó thì tôi sẽ không dám phiền thêm lòng tốt của ông
nữa.”
Chúng tôi chuyển sang phòng tiếp khách, nhưng trên đường đi lại gặp anh
cảnh sát đang đứng đợi vị Đại tá. Hai người nhỏ to trao đổi một hồi, và sau
đó ông Đại tá xin phép cáo lui, để tôi cùng ông Poirot tự đi cùng nhau. Tôi
chỉ cho Poirot chiếc tủ bạc. Ông ấy lấy tay mở nắp một hai lần, rồi buông
tay để nó đóng sập lại, sau đó ông đẩy cánh cửa sổ mở toang và bước ra sân
hiên. Tôi cũng theo chân ông ấy.
Ngay lúc đó viên thanh tra Raglan rẽ ra phía hông nhà và tiến về phía
chúng tôi, vẻ mặt nghiêm trọng nhưng hài lòng. Thấy chúng tôi, ông ta nói
ngay, “Ông đây rồi, ông Poirot. Cha cha, vụ án hóa ra không có gì. Tôi cũng
lấy làm tiếc. Có vẻ như anh bạn trẻ Paton lương thiện kia đã lầm đường lạc
lối.”
Mặt Poirot sa sầm, ông nhẹ nhàng cất tiếng, “Vậy tôi e là tôi sẽ không thể
trợ giúp được gì nhiều cho ông?”