quanh nó và sống bên ngoài nó như thế nào. Khả năng ấy dứt khoát là có,
trong những ngày vừa qua K. nghĩ đến nó luôn. Nhưng nếu linh mục biết
thì liệu ông ấy có nói ra khi người ta cầu xin không? Bản thân ông chẳng
phải người của tổ chức tư pháp là gì? Khi K. công kích tòa án, ông ta đã
chẳng tự mình dẹp cái tính tình dịu dàng lại để quở mắng K. một cách gay
gắt đấy ư?
- Ông xuống đây được không? - K. hỏi - Có phải thuyết pháp gì đâu,
xuống đây với tôi.
- Được, bây giờ ta có thể xuống. - Linh mục nói.
Có lẽ ông hối hận lúc nãy đã hét lên. Trong lúc tháo cái đèn, ông nói:
- Ta buộc lòng lúc bắt đầu nói phải đứng xa ra. Nếu không thế, ta dễ bị
lung lạc và do đó quên mất giáo chức của mình.
K. đợi ông ở chân thang. Chưa xuống đến nơi, linh mục đã giơ tay ra bắt
tay anh.
- Ông có thể bớt chút thời giờ với tôi được không? - K. hỏi.
- Muốn bao lâu cũng được. - Linh mục vừa nói vừa đưa chiếc đèn con
cho K. cầm. Ngay khi đứng gần, ông vẫn cố giữ phong thái trang trọng.
- Ông tử tế với tôi quá. - K. nói.
Hai người đi đi lại lại bên cạnh nhau trong bóng tối âm u của gian bên
nhà thờ.
- Ông là một trường hợp ngoại lệ trong số các nhân viên tư pháp. Tôi tin
ông hơn bất cứ ai trong bọn họ, tuy tôi quen biết khá nhiều. Với ông, tôi có
thể nói thẳng được.
- Con đừng hiểu lầm. - Linh mục nói.
- Hiểu lầm về cái gì?
- Chính là con hiểu làm về tổ chức tư pháp. Trước khi có luật pháp,
trong sách đã nói đến sự sai lầm ấy rồi: “Một lính canh đứng gác trước cửa
luật pháp; bữa kia có người đến gặp và xin phép được vào. Nhưng lính
canh bảo gã không thể để cho y vào lúc này được. Người đó [1] nghĩ ngợi
và hỏi mai mốt có vào được không”. “Có thể được, - Lính canh nói - nhưng
bây giờ thì không”. Lính canh đứng né sang một bên, cửa vẫn luôn mở nên
người đó nghiêng đầu nhìn vào bên trong. Thấy vậy lính canh cười và bảo: