Tôi vớ chiếc áo len mỏng và đi theo cô ra ngoài vườn. Tôi mới thấy
Michael có một lần trước đây, từ xa, từ cửa sổ buồng tôi. Anh ta đang đặt
cây cello của Beth vào thùng xe. Khi anh ta ngước lên và cất tiếng chào, tôi
nhìn thấy một khuôn mặt vui tươi, thông minh, với đôi má ửng đỏ khiến
anh ta nhìn giống như một người dân quê hay một tay tửu đồ vui tính. Anh
ta có khổ người cao và nặng nề, nhưng ngoại hình lại có nét gì đó mềm yếu
làm tôi nhớ lại nhận xét đầy trách cứ của Beth về anh ta. Áo đuôi tôm của
anh ta hơi bị nhàu, và anh ta không thể cài chặt nó lại ở chỗ ngang bụng.
Mái tóc vàng rũ rượi của anh ta phất phơ trên trán, và tôi nhận thấy anh ta
phải hất nó lên thường xuyên. Tôi nhận định một cách đầy ác ý là chẳng
bao lâu nữa anh ta sẽ hói.
Michael nổ máy và điều khiển chiếc xe từ từ rời khỏi ngõ. Khi chúng
tôi đến chỗ giao lộ với con đường chính, ánh đèn mũi xe chiếu sáng con vật
bị cán bẹp vẫn nằm trên mặt đường. Michael vòng qua tránh nó, và hạ kính
xuống để nhìn những phần còn lại đẫm máu. Nó đã bị cán dẹp nhưng, thật
trêu tức, vẫn giữ được hình dạng của mình trên mặt phẳng hai chiều.
“Ra là một con lửng,” anh ta nói với Beth. “Nhất định nó đã đi lạc ra
đây từ trong rừng.”
“Nó nằm đây mấy hôm rồi,” tôi nói. “Tôi đi ngang qua nó ngay lúc nó
vừa bị cán chết. Tôi nghĩ nó đang mang thai. Trước đây tôi chưa thấy con
này bao giờ.”
Beth nhoài sang phía Michael và nhìn thoáng qua ra ngoài cửa sổ,
không quan tâm gì lắm.
“Phải có ai đi dọn mớ tàn tích này chứ?” tôi hỏi.
“Không đâu. Đám nhặt rác rất mê tín. Không ai dám động vào một
con lửng, họ nghĩ nó đem lại vận xấu. Rồi nó sẽ bị bánh xe chạy qua tha
dần đi hết thôi.”