sắp xếp công phu thành những hình bán nguyệt đồng tâm hoàn hảo. Tôi tự
hỏi không biết kỳ công nho nhỏ này của khoa hình học sẽ còn tồn tại được
bao lâu sau khi mọi người bắt đầu đến, và không biết còn có ai được chiêm
ngưỡng nỗ lực này nữa không. Tôi quyết định đi dạo qua rừng và vòng
quanh hồ, trong khoảng nửa tiếng trước khi buổi diễn bắt đầu.
Ánh sáng tàn dần. Một ông già mặc đồng phục đang đi lùa bầy công
về trước khi đêm xuống. Qua những thân cây, tôi nhìn thấy những chú ngựa
được thả ra trên một cánh đồng. Tôi đi ngang qua một người gác với hai
con chó, và anh ta đưa tay lên mũ để chào. Lúc tôi đến được bờ hồ thì trời
đã tối. Khi tôi nhìn lại về phía lâu đài, như thể một công tắc khổng lồ đã bật
lên: toàn bộ mặt tiền đã bừng sáng, rõ ràng và bình thản như một món châu
báu cổ xưa. Nhờ cái bóng lâu đài, mặt hồ vươn dài ra hơn nhiều so với tôi
đã tưởng, nên tôi đành bỏ ý định đi giáp một vòng và quay trở lại đường cũ.
Rất nhiều ghế giờ đã có người ngồi, và tôi kinh ngạc vì số người vẫn
đang đổ tới từng toán, nước hoa và áo dạ hội nối tiếp nhau. Seldom đang
vẫy vẫy bản chương trình của ông về phía tôi từ một dãy ghế gần với sân
khấu. Ông nhìn cũng thanh lịch hơn hẳn bình thường, với bộ lễ phục và nơ
đen. Chúng tôi chuyện trò qua lại một lúc về buổi thuyết giảng ông đang tổ
chức ở Cambridge, sự bí mật bao trùm phần trình bày của Wiles, và rất
ngắn gọn, chuyến đi của tôi đến Leeds. Tôi nhìn quanh và thấy hai người
chỉ chỗ ngồi đang vội vã mở bung những chiếc ghế để sắp thêm một hàng
nữa.
“Tôi không nghĩ có nhiều người đến thế đấy,” tôi nói.
“Phải,” Seldom đáp, “gần như cả Oxford đều có ở đây, nhìn bên kia
kìa.” Và ông hướng mắt về phía chỗ ngồi cách đó một vài dãy về bên phải.
Tôi quay lại hết sức kín đáo và thấy thanh tra Petersen với một cô gái
trẻ, có lẽ chính là cô bé tóc nhạt màu trong tấm hình hai mươi năm về trước.
Viên thanh tra gật đầu với chúng tôi.