bóp cổ ông ấy. Tôi thấy ngài rút súng ra, và thế là tôi nhảy lên sân khấu để
cứu ông ấy.”
“Nhưng ông ấy không phải bị siết cổ chết, phải không?” Seldom hỏi
khẽ.
Petersen có vẻ do dự một lát trước khi trả lời. “Xem ra thì là hô hấp tự
tắc nghẽn. Bác sĩ Sanders, người vừa lên sân khấu, đã làm phẫu thuật cho
ông ta hai năm trước vì bệnh viêm khí quản, và cho là ông ta còn sống được
năm sáu tháng nữa thôi. Ông ta còn đứng được quả là một phép lạ, khi mà
dung tích hô hấp bị giảm thiểu đến mức ấy. Xét nghiệm sơ bộ của bác sĩ là
chết vì nguyên do tự nhiên.”
“Phải,” Seldom lầm bầm, “nguyên do tự nhiên. Kỹ năng của hắn đã
đến mức tuyệt tác khó tin được, phải không? Một cái chết tự nhiên, phải thế
thôi, cực điểm logic, hình mẫu tuyệt hảo của án mạng không thể nhận ra.”
Petersen lấy kính ra và lại nghiêng người trên hai mảnh giấy:
“Ông đã đoán đúng về ký hiệu kế tiếp,” ông ta nói, ngước lên nhìn
Seldom. Ông vẫn có vẻ chưa dám khẳng định vị giáo sư này là đối thủ hay
đồng minh của mình. Tôi có thể hiểu lý do: có một cái gì đó trong cách lập
luận của Seldom mà viên thanh tra không nắm bắt được, và Petersen không
quen có một người luôn đi trước ông ta một bước trong cuộc điều tra.
“Phải, nhưng ông thấy đấy, biết trước chẳng giúp được gì.”
“Có mấy chỗ hơi khác biệt với những tin nhắn khác: cái này không
kèm theo thời điểm. Còn những mẩu giấy này nữa, có lề nham nhở, giống
như bị xé ra một cách bất cẩn và vội vã khỏi một tờ chương trình.”
“Có thể,” Seldom nói, “đó chính là điều hắn muốn chúng ta nghĩ.
Không phải toàn bộ quang cảnh với tia đèn pha và thời khắc cao trào của
bản nhạc, chẳng khác gì một màn ảo thuật điêu luyện sao? Trên thực tế, cái