được một mình ở trong thư viện vào ban đêm. Anh ta đang cầm một điếu
thuốc, gõ nhẹ nó vào mặt bàn kính trước khi châm lửa.
“Đúng thế,” anh ta nói, “tôi đến đây ban đêm để có thể yên lành mà
hút điếu thuốc.”
Anh ta nở một nụ cười gượng nhưng thân thiện rồi lật cuốn sách để
xem nhan đề. Mặt anh ta chưa cạo râu, đôi măt nghiêm trang và sáng rực.
“À, Hội huynh đệ theo Pythagoras. Cái này có liên quan gì đến những
ký hiệu anh vẽ trên bảng ở văn phòng, đúng không? Hình tròn, con cá...
Nếu tôi nhớ không lầm, đó là những chữ số bằng ký hiệu đầu tiên của giáo
phái này, phải không nhỉ?” Anh ta nghĩ ngợi một lúc rồi đọc thuộc lòng,
như đang khoe trí nhớ của mình. “Hình thứ ba là tam giác, hình thứ tư là cái
tứ linh.”
Tôi nhìn anh ta, ngơ ngẩn. Hóa ra Podorov, người đã nhìn thấy tôi
nghiền ngẫm hai ký hiệu trên bảng đen, đã không đặt khả năng nó có thể là
gì hơn ngoài một vấn đề toán lạ. Podorov, người không biết gì về chuyện
những vụ án mạng, từ bấy đến giờ đã có thể đứng dậy tới vẽ tiếp cái liên
chuỗi trên bảng cho tôi.
“Đây là đề Arthur Seldom ra cho anh đấy à?” anh ta hỏi. “Chính từ
ông ta mà tôi nghe lần đầu đến những ký hiệu này, trong một bài ông ta
giảng ở một hội thảo về định lý sau cùng của Fermat. Dĩ nhiên anh cũng
biết là định lý Fermat đơn thuần chỉ là sự gia hạn của đề toán về bộ ba
Pythagoras, bí mật được giữ kín nhất của giáo phái họ.”
“Khi nào thế?” tôi hỏi. “Nhất định không phải gần đây chứ.”
“À không, không, nhiều năm rồi,” Podorov nói. “Quá lâu đến mức,
như tôi nhìn thấy, Seldom không còn nhận ra tôi nữa. Dĩ nhiên, hồi ấy ông
ta đã là Seldom vĩ đại rồi, còn tôi chỉ là một nghiên cứu sinh vô danh tiểu
tốt ở một thành thị nhỏ bên Nga, nơi tổ chức hội thảo. Tôi cho ông ta xem
công trình của mình về định lý Fermat - lúc ấy tôi chỉ bận tâm duy nhất về