sách tất cả các nhà toán học trong Viện. Dù sao thì chắc tôi cũng không
nhận ra anh ta: tôi luôn luôn nhớ đến anh ta như một thanh niên hơi có vấn
đề, để một bộ râu nhọn, người cho rằng mình đã chứng minh được định lý
Fermat. Chỉ sau đó khá lâu, tôi mới nhớ ra là mình đã giảng một bài về
những con số của Pythagoras ở hội thảo ấy. Tôi không muốn nói lại chuyện
này với thanh tra Petersen. Lâu nay tôi vẫn thấy như mình có lỗi về chuyện
Podorov. Nghe nói anh ta đã tự sát hụt khi học trò của tôi được nhận huy
chương Fields.”
“Nhưng đâu thể là anh ta được, phải không?” tôi hỏi. “Tối nay anh ta
đang ở trong thư viện này kia mà.”
“Không, tôi không bao giờ thực sự cho là anh ta, nhưng tôi biết có thể
anh ta là người duy nhất nhận ngay ra cách viết tiếp liên chuỗi này.”
“Phải,” tôi nói, “anh ta vẫn nhớ nằm lòng toàn bộ bài giảng của ông.”
Chúng tôi đứng dưới mái hiên hình bán nguyệt ở lối vào, gió mạnh
thổi làm bắn những hạt mưa đang rơi lên người. “Chúng ta đến quán rượu
đi,” Seldom nói.
Tôi đi theo ông, cố che cuốn sách cho khỏi ướt. Quán rượu có vẻ như
là nơi duy nhất mở cửa trong toàn vùng Oxford. Trong đó đầy người sang
sảng nói chuyện và cười thật lớn, với cung cách vui nhộn gây hồ hởi và hơi
giả tạo một chút mà người dân Anh hình như chỉ có được sau khi uống thật
nhiều bia. Chúng tôi ngồi xuống bàn, mặt gỗ nổi đầy những vòng tròn ướt.
“Xin lỗi các ông,” bà chủ quán đứng sau quầy nói, như thể bà ta
không thể làm gì cho chúng tôi được, “các ông đã lỡ mất giờ bán bia rượu
rồi.”
“Chúng ta không thể ngồi lâu được,” Seldom nói. “Tôi chỉ muốn biết
ý nghĩ của anh, giờ đây khi anh đã biết liên chuỗi ấy là gì.”