nó trên đời - và nhờ ông chuyển cho nhóm Lý thuyết số ở Cambridge,
nhưng thấy rõ là họ quá bận không có thời giờ đọc. À, không phải tất cả
bọn họ nhỉ,” anh ta nói. “Một học trò của Seldom đã đọc công trình, sửa
chữa lại thứ tiếng Anh đầy lỗi của tôi, và công bố nó dưới tên anh ta. Anh ta
đã được trao tặng Huy chương Fields cho sự đóng góp quan trọng nhất
trong nhiều thập kỷ vào việc giải bài toán này. Bây giờ Wiles đang chuẩn bị
bước đến những những bước cuối cùng, đều nhờ vào những định lý ấy cả.
Khi tôi viết thư cho Seldom, ông trả lời là công trình của tôi có sai sót, và
sinh viên của ông đã hiệu đính lại,” Podorov cười khan và thở ra, nhả mạnh
một cụm khói lên cao. “Sai lầm duy nhất của tôi,” anh ta nói, “nằm ở chỗ
tôi không phải người Anh.”
Tôi ước gì mình có cách nào khiến anh ta ngừng nói. Tôi lại có cảm
giác lần này, cũng như khi ở công viên Đại học, là tôi đang đứng ở điểm
nhìn thấy được một điều gì đó, và có lẽ, nếu tôi ngồi lại một mình, mảnh
ghép của câu đố vẫn trốn tránh tôi sẽ được đặt lại vào đúng chỗ. Tôi đứng
dậy, lầm bầm một câu xin phép vu vơ, rồi điền thật nhanh vào một tấm thẻ
để mượn sách. Tôi muốn ra bên ngoài, thật xa giữa đêm tối, xa khỏi mọi
thứ. Tôi lao xuống cầu thang, và khi đang ra cửa, tôi suýt nữa đâm bổ vào
một dáng người bị bóng tối che lấp đang đi vào từ bãi đậu xe. Đấy chính là
Seldom, giờ đây mặc thêm một chiếc áo mưa bên ngoài bộ lễ phục, Tôi
bỗng nhận ra là trời đang mưa.
“Sách của anh sẽ bị ướt mất thôi,” ông nói, và đưa tay ra xem đó là
cuốn gì. “Vậy là anh đã biết nó là cái gì. Và tôi thấy qua khuôn mặt anh là
anh còn phát hiện ra thêm một điều khác nữa chứ gì? Đấy là lý do tại sao tôi
muốn anh thử tìm hiểu lấy.”
“Tôi đụng mặt người bạn cùng phòng trong đó, anh Podorov. Anh ta
nói đã gặp ông một lần nhiều năm trước.”
“Viktor Podorov, phải. Tôi đang nghĩ không biết anh ta đã nói gì với
anh rồi. Tôi đã quên bẵng anh ta cho đến khi thanh tra Petersen đưa tôi danh