kỹ, tôi mới thấy may mắn là không phải chỗ nào cũng gầy. Đặc biệt là từ
sau lưng, trông cô cũng thuộc dạng ôm được lắm. Như hết thảy con gái
dong dỏng cao, có một chút gì đó dễ thương tổn trên con người cô. Khi mắt
chúng tôi chạm nhau một lần nữa, cô hỏi - có lẽ là không có ý mỉa mai - tôi
có còn muốn coi chỗ nào nữa không. Tôi nhìn lảng chỗ khác, ngượng
ngùng, trả lời nhanh là mọi chuyện xem chừng rất ổn. Trước khi cô đi khỏi,
tôi hỏi, loanh quanh khá lâu mới đến được ý chính, là mình có nên thực sự
coi như đã được mời ăn tối không. Cô bật cười đáp rằng có chứ, và họ đợi
tôi có mặt vào sáu giờ rưỡi.
Tôi lôi chỗ đồ đạc ít ỏi ra, xếp vài quyển sách và luận án của mình lên
bàn, rồi bỏ quần áo vào các ngăn kéo. Sau đó, tôi đi bộ một vòng quanh phố
xá. Ở đầu đường St Giles, tôi nhận ngay ra tòa nhà Viện Toán học, kiến trúc
hiện đại xấu xí duy nhất ở đây. Tôi nhìn các bậc thềm và cánh cửa quay
phía trước, rồi quyết định bỏ qua nó trong ngày đầu tiên. Tôi mua một bánh
mì kẹp, và ăn một bữa trưa lẻ loi, hơi trễ ở ngoài trời, bên bờ sông, vừa ăn
vừa theo dõi đội đua thuyền tập luyện. Sau đó tôi ghé qua vài tiệm sách,
dừng chân chiêm ngưỡng những con gargoyle
[3]
trên bờ tường một hí viện,
đi theo một nhóm du lịch có hướng dẫn vòng quanh sân một học viện, rồi đi
bộ một lúc lâu trong Công viên Đại học. Giữa một khu đất có trồng cây
xung quanh, một người đang lái máy xén những mảng cỏ lớn hình chữ nhật,
và một người khác đang sơn những đường kẻ trên sân quần vợt. Tôi dừng
lại ngắm họ, lòng tràn đầy hồi ức. Khi họ ngừng tay, tôi liền hỏi xem khi
nào lưới mới được căng. Tôi bỏ quần vợt từ hồi năm thứ hai đại học, và
cũng không mang theo vợt, nhưng tôi đã tự hứa phải mua một cái mới và
tìm người cùng tập.
Trên đường về, tôi vào một siêu thị mua sắm vài thứ cần dùng, và bỏ
công lùng một tiệm rượu, rồi mua đại không chọn lựa gì lắm một chai vang
cho bữa tối. Khi về tới ngõ Cunliffe, mới hơn sáu giờ mà trời đã tối và các