khỏi trường gần nửa tiếng trước. Khi Petersen gọi điện hôm qua yêu cầu tôi
miêu tả nét chữ cho người họa sĩ, tôi nhận ra là ông ta rất thất vọng về
chuyện không tìm được mẩu thư. Ông ta được coi như là người thanh tra
khá nhất chúng ta có ở đây trong nhiều năm nay. Tôi có xem qua toàn bộ
ghi chép trong một vài vụ án của ông ta. Ông ta làm việc rất thấu đáo, tỉ mỉ,
không chê vào đâu được. Nhưng ông ta vẫn chỉ là một thanh tra cảnh sát.
Tôi muốn nói là ông ta đã được uốn nắn theo những thủ tục cảnh sát; anh có
thể đoán ra đầu óc ông ta sẽ làm việc theo cách nào. Không may là những
người như ông ta tuân thủ theo Quy tắc lưỡi dao cạo của Ockham: khi nào
còn chưa có bằng chứng hiện vật nói ngược lại, thì họ sẽ ưa thích giả thuyết
nào đơn giản hơn giả thuyết phức tạp. Đấy chính là lỗi thứ hai. Không phải
chỉ vì thực tế có khuynh hướng phức tạp một cách tự nhiên, mà còn phần
lớn bởi vì nếu kẻ giết người có đầu óc và chuẩn bị cẩn thận cho tội ác, hắn
sẽ để lại một lời giải thích đơn giản cho mọi người đều thấy, một thứ hỏa
mù, như khi nhà ảo thuật rời khỏi sân khấu. Nhưng trong thứ giả thuyết tằn
tiện logic này, một lý lẽ khác lại luôn luôn thắng thế: tại sao phải giả định
một thứ gì kỳ lạ và bất bình thường, như một tên sát nhân với những động
cơ trí thức, nếu họ có những cách giải thích tức thì trong tầm tay? Tôi gần
như có thể cảm thấy bằng giác quan cảnh Petersen bước lùi lại và tái thẩm
tra những giả thuyết của ông ta. Tôi nghĩ ông ta giờ hẳn đã phải bắt đầu
nghi ngờ tôi, nếu không phải ông ta đã kiểm chứng được là khoảng từ một
tới ba giờ chiều hôm ấy tôi còn đang dạy học. Tôi đoán là họ cũng đã kiểm
lại lời khai của anh.”
“Vâng, khi chuyện xảy ra tôi đang ở trong thư viện Bodleian. Họ tới
đó hỏi về tôi hôm qua. May thay, người thủ thư còn nhớ được nhờ ngữ âm
không chuẩn của tôi.”
“Vậy là lúc xảy ra án mạng anh đang tham khảo sách vở à?” Seldom
nhướng mày một cách giễu cợt. “Ít nhất lần này, hiểu biết thực sự là tự do
nhỉ.”