bảng đen và, chìm sâu trong suy nghĩ, chậm rãi vẽ ra hai ký hiệu: vòng tròn,
rồi đến con cá bằng hai nét vẽ cong. Ông đứng lặng, tay cầm phấn, đầu cúi
xuống, thỉnh thoảng lại vạch những dấu mờ nhạt ngoài mép bảng.
Gần nửa tiếng sau điện thoại mới đổ chuông. Seldom yên lặng nghe
Lorna nói, nét mặt kín đáo không biểu hiện điều gì, thỉnh thoảng lại buông
từng tiếng một trả lời.
“Phải,” cuối cùng ông nói, “đó là giờ chính xác ghi trên lời nhắn.”
Khi ông đã gác máy và quay sang tôi, trong một chốc nhìn ông như
vừa trút xong gánh nặng.
“Không phải Frank,” ông nói, “đó là bệnh nhân giường kế bên. Thanh
tra Petersen vừa đến nhà xác bệnh viện để kiểm tra lại những ca tử vong
vào Chủ nhật. Người chết này cao tuổi lắm rồi, ngoài chín mươi. Ông ta
được báo cáo là đã chết lúc 2:15, vì nguyên do tự nhiên. Hóa ra, cả y tá lẫn
bác sĩ trực tầng đó đều không nhìn ra một dấu chấm nhỏ trên cánh tay, như
kiểu dấu kim chích. Họ sẽ làm xét nghiệm tử thi để tìm xem đó là gì.
Nhưng tôi nghĩ chúng ta đã đúng. Một vụ giết người lúc đầu không ai coi là
giết người. Một cái chết được tin là có nguyên do tự nhiên, với một dấu
chấm trên cánh tay, thế thôi. Một dấu chấm gần như không nhận ra được.
Hung thủ thế nào cũng đã chọn một hóa chất không để lại dấu vết gì. Tôi
dám nói là họ sẽ không xét nghiệm ra cái gì đâu. Dấu chấm là tất cả những
gì phân biệt cái chết này với những cái chết có nguyên do tự nhiên. Một dấu
chấm,” Seldom nhắc lại, như thể đây là khởi điểm cho vô vàn ngụ ý vẫn
còn vô hình chưa thấy được.
Điện thoại lại reo. Đó là Kim, từ dưới nhà, báo cho tôi là một thanh
tra cảnh sát đang trên đường lên văn phòng tôi. Tôi mở cửa cùng lúc dáng
người cao gầy của Petersen xuất hiện trên đầu cầu thang. Ông ta đi một
mình và có vẻ bực bội ra mặt. Ông ta bước vào phòng và nhìn thấy hai ký
hiệu trên bảng trong khi đang chào chúng tôi, rồi đột ngột ngồi xuống.