Duy có các bà thì chắc chưa được biết lắm vậy, thiết tưởng kẻ
này cũng nên nói một câu về cách tổ chức và cách bày biện ở những
nhà hát, – riêng về một số đông nhà hát ở Khâm Thiên, trên gác, ra
thế nào.
Có thể nói rằng trong 100 nhà thì 90 nhà, gác giống nhau. Vừa ở
thang lên, một cái tủ chè; sát tủ chè là một cái sập hay một bộ giường
ghế ngựa. Trên ghế ngựa, một bộ bàn đèn để ta "hấp sổ điểu";
đoạn, đến một cái bàn; bên cạnh cái bàn là một cái phản làm chỗ cho
người cô đầu ngồi hát; thế rồi thì đến cái cửa trông ra ban công
nhìn xuống đường.
Nói cho đúng mà không sợ ông Phán T. cải chính thì lạy trời lạy
Phật ông phán đêm ấy quả có hát ở gác nhà ấy thực. Nhưng trong
lúc bà phán bò xuống đất ban công ngồi rình ở sau cái màn thì
ông phán của chúng ta lại không có mặt ở chỗ khay đèn mà cũng
chẳng ở chỗ bàn uống nước.
– Hay là ông đương nghe hát? Không, ông đương ở cái phòng cạnh
gian đó và đương nói chuyện với nhân tình "kết lắm". Ở gian ngoài,
bà phán chỉ thấy có ba người: Ông B. vô tuyến điện, ông X. Pốt và
ông K. Lồi, toàn những mặt quen thuộc vẫn nhập bọn với ông
chồng bà ta. Bà phán T.nghĩ: "Ủa, bọn đầu trâu mặt ngựa đủ mặt ở
đây rồi mà cơn cớ làm sao thằng "khỉ gió" lại không thấy bóng vía
nó ở đâu nhỉ. Thôi, có lẽ nó còn bận xuống dưới nhà hay là chạy
nhặng lên đâu đó chứ gì. Ta chịu khó chờ. Chờ thì cái gì mà chẳng
đến?" – Bà phán phủ phục mỏi, bây giờ ngồi xổm lên. Bà ghé bên
này, bà ghé bên kia. Chiếu hát đương vui, mọi người rượu vào đều
thở ra khói thét ra lửa cả, hai nữa, cô đầu thì bị quan viên dằn vặt
kéo co, nào ai lại để ý rằng cách đó ba bước ở sau tấm màn nọ lại có
một người ngồi xổm? Mười lăm phút qua đi. Không ai biết cả.
Nhưng đến phút thứ mười sáu thì cái ngao thuốc phiện hết. Và tai
hoạ đã xảy ra.