tuồng này thường là hạng hàng nước, hàng rong, cày ruộng, những
người hoàn toàn Việt Nam hiện giờ vẫn lưu luyến những cái gì của
đất nước Việt Nam.
Những rạp tuồng rong ấy có độ dăm ba kép và một vai đào mặc
áo the đi đất. Họ là những người bô-hê-miêng đi diễn tuồng, tất cả
gia sản chỉ có một cái thúng trong có mấy cái áo tàng, nghiên mực,
thỏi son và ít phấn. Chọn được nơi nào lợi địa họ ngả ra ở đấy,
thắp đèn lên và gõ trống thanh la, gọi khách. Một người đóng hai
vai, có khi đến bốn năm vai. Có đứa trẻ mười tuổi đóng hai vai lão
tướng. Họ không có một cái phông, nhưng họ có giọng hát, nhưng họ
hát tuồng nên được những người ngoại ô rất hoan nghênh, có đêm
họ diễn hết ba tuồng Sơn hậu. Những rạp tuồng rong đó thường
được người ưa tuồng gọi về hát ở sân nhà và chẳng bao lâu đã đẻ ra
ở
thành phố Hà Nội một rạp hát tuồng kỳ lạ như rạp tuồng chúng
tôi đã được xem ở Quảng: đó là một thằng bé mần đủ các giọng
tuồng, tay cầm hai thanh tre gõ nhịp, đi đến gần các quán nước,
các trại lính, một mình mình diễn, một mình mình đóng tất cả các
vai trong tuồng Tam quốc, Mã long, Mã phụng, Bạch Viên Tôn Các.
Những buổi chúng tôi được đi "dự" những buổi hát tuồng của vị
tướng tuồng "đơn thương độc mã" đó chúng tôi mê lắm. Mà có lẽ
cũng có nhiều người thấy như thế cho nên bu lại xem đông lắm.
Có nhiều lúc chúng tôi thấy cái thời "hát cải lương" đã qua rồi,
tuồng cổ đã bắt đầu lại là sự mới lạ cho công chúng Việt Nam.
Hình như chỉ có tuồng cổ mới thật là món ăn tinh thần của người
mình, nó đi rồi nó lại lại chứ không bao giờ mất, cũng như cây cao
không sợ chết đứng mà người đã thực là có tài thì ít khi bị mai một
tài đi; sự tràn lấn của những cái tài không vững chỉ là quãng đời của
một con dạ điệp (papillon de nuit) mà thôi vậy.
Lúc nào, chúng tôi cũng tin rằng tuồng cổ không bao giờ tiêu
diệt được. Thì quả độ vài năm trở lại đây, nghề tuồng cổ xem chừng