Xứ Algérie gồm có 359 thị xã (tức là làng) chia làm thị xã cụ thể
và thị xã giáp tạp (commune de exercice et commune mixte). Thị xã
cụ thể tổ chức và quản trị giống hệt các thị xã nước Pháp, có xã
trưởng đứng đầu và hội đồng thị xã giúp việc. Thị xã giáp tạp thì do
một viên chức đứng đầu gọi là quan cai trị. Những thị xã ở đây diện
tích rộng lớn vô cùng, có thị xã đất rộng tới 500.000 mẫu tây. Các
thị xã giáp tạp ở miền nam, giáp các cao nguyên và sa mạc thường
thường rộng lớn hơn thế nhiều.
Trong 50 năm, dân cư tăng lên gấp đôi
Dân cư Algérie tăng lên rất mau, có thể nói là mau hơn hết thế
giới. Trong có 50 năm, từ 1876 đến 1926, dân số xứ ấy đã tăng từ
2.867.626 lên tới 5.981.221 người. Thật là một con số vô địch về sự
sinh sản. Dân số đó gồm 5.147.872 người bản xứ và 833.359 người
Âu. Họ sống cách biệt nhau, nhưng rất hoà thuận. Và tại các thành
thị lớn, mỗi ngày người ta thường thấy có nhiều cuộc kết hôn giữa
người Âu và người bản xứ.
Dân bản xứ thì gồm có dân Berbères là dân cố thổ ở đây, dân A-
rập, dân Maures và dân Koulougbris là dân lai Thổ-nhĩ-kỳ và người
bản xứ. Dân Berbères là phần tử cốt yếu xứ Algérie, cũng gọi là
dân Kabyles. Trong 5 triệu thổ dân thì 2 triệu dân nói tiếng
Berbères. Tất cả đều theo đạo Hồi, có điều là dân Kabyles không
mê đạo bằng dân A-rập. Tuy họ theo đạo Hồi song họ vẫn giữ
nhiều cổ tục, nhiều dị đoan mê tín đồng bóng, có đâu từ trước đời
Hồi giáo tràn vào. Dân miền núi Tell thì ở trong những nhà cửa
bằng đá hay bằng cành cây, gọi là "gourbi" (y như những nhà của
người thượng cổ) hoặc trong những mạc trướng (tente) như những
dân giang hồ, nhưng họ đều ở lỳ một chỗ và chuyên về nghiệp
nông. Dân miền cao nguyên là dân giang hồ nay đây mai đó, vì họ
phải đuổi mục súc đi ăn cỏ từ nơi này đến nơi khác luôn luôn. Họ ở
trong những túp lều bằng vải căng (tente). Tất cả các lều vải một