gian, vì số Yanqui đông hơn họ quá nhiều, và nhất là hoàn cảnh kinh tế đã
bắt buộc họ phải chịu đựng. Họ buôn bán làm ăn với người Yankee, uống
cà phê với họ và mời họ tham dự những sinh hoạt có tính cách xã hội,
nhưng ít khi một người Yankee được mời về nhà họ. Đúng, có những cuộc
hôn nhân giữa những người Yankee và người Creole, nhưng Brodie nhận
thấy đa số các cuộc hôn nhân ấy phần lớn đều có lợi cho người Creole,
hoặc là mang thêm của cải đến cho họ, hoặc là để củng cố một số quan hệ
đã có giữa hai bên về mặt lợi tức.
Người Mỹ và người Creole đại diện cho hai nền văn hóa hoàn toàn khác
biệt nhau. Sau gần 50 năm, họ đã học được cách sống chung trong sự dè
dặt, đôi khi xung đột, nhưng luôn luôn ganh đua nhau, dù rằng một cách tế
nhị khó thấy.
Không như những người như chàng ở khu phố Mỹ, Brodie đã bỏ thì giờ
học tiếng của người Creole, tuy chàng thường thấy có lợi khi giả vờ không
nói được và không nghe được tiếng đó, ít nhất là không thạo lắm. Và chàng
đã học được cách tự kiềm chế khi nôn nóng, và không thúc ép đi đến một
quyết định trong công việc làm ăn, mà cứ để cho câu chuyện thong thả tiến
đến chỗ kết cuộc là vấn đề chính được nêu lên, nếu có. Kết quả một phần
lớn công cuộc làm ăn của chàng là với khu phố Quatier, kể cả một số liên
hệ đáng giá với các khách hàng ở Âu châu. Phải, chàng làm ăn nhiều với
khu phố Quatier, nhưng không phải là tất cả với những người quý phái.
Một người da đen mù đang kéo vĩ cầm ở góc phố, mớ tóc quăn màu xám
tro để trần dưới nắng, cái mũ mềm xèo của y để ngửa trên vỉa hè trước mặt
y, đôi mắt che giấu một phần bởi cặp kính màu đen. Brodie dừng lại và bỏ
một đồng đôla vào cái mũ của y.
- Cám ơn – Người ăn xin già ngẩng phắt đầu lên khi nghe tiếng đồng bạc va
vào các đồng hào và đồng xu.
- Sức khỏe thế nào, Cado? – Brodie hỏi y bằng tiếng Pháp.
Y nghiêng đầu lên khi nghe tiếng chàng.
- Ông Donovan – Y nói vì nhận ra ngay tiếng chàng, trong khi tay vẫn kéo
đàn, không lỗi một nhịp – Lão Cado khỏe mạnh thưa ông, nhất là hôm nay
có mặt trời sưởi ấm nắm xương già mỏi mệt.