Người di cư ngày vô một đông, chặt rừng, lấp sông, khai thác hải thủy
sản như một thứ nguồn bất tận. Trước kia, phù sa đắp vào những cồn đất
bồi, những mảng rừng mắm xanh ngắt trồi lên giữ đất chống lại biển rút
đẩy ra khơi. Biển trùng trùng, nước ngầu đục tứ phía, mùi chua nghen
nghét, thỉnh thoảng ồ lên hăm dọa khi giông bất chợt ùa về đánh úp. Người
đi đánh cá ven bờ lúc đó quay vào, đẩy ghe, kéo xuồng tạm nấp trong
những cái vũng xung quanh rừng che chở an toàn, họa hoằn lắm mới có
những tai ương chết người. Nay, không còn thế. Người đông, rừng đước
rừng mắm chặt trụi, nước biển tràn vào khiến bùn sình ùn lên, đất trồng trọt
ngày một hiếm, lúa bị ngập úng, rầy phá, giá gạo tăng còn nhanh hơn thủy
triều. Sông Cửa Lớn tôm cá ít đi, ghe câu thì nhiều, đánh cả buổi mà thu
nhập vẫn không đủ ăn. Ven biển cũng vậy. Dân chài lắp máy đuôi tôm, liều
lĩnh ra xa bờ hơn, quăng lưới giăng câu với lòng tin vào tin khí tượng loan
báo mỗi sáng như lời cứu độ.
Nghe tiếng máy nổ sình sịch, Hớn gọi con dậy. Thẻo nhăn nhó:
- Con đau bụng, ba hà! - nhưng cố ngồi lên.
- Tao nói hoài, hàu vắt chanh ăn ngon miệng thiệt, nhưng không có đế thì
Tào Tháo rượt... Mà mày đâu đã đến tuổi uống rượu! - Hớn làu bàu, tay
đưa chai dầu nóng cho con - Thôi, bữa nay nghỉ, thoa dầu vô bụng, uống
nước thì nhễu vô ba giọt...
- Anh Tám, đi chưa? - tiếng Sáu Nhêm vang lên.
Hớn choàng vào cổ chiếc áo dạ, quơ tấm vạt nhựa, đẩy cửa bước ra. Tay
ôm cột đước chống chòi, thằng Ba hỏi:
- Thẻo đâu chú?
- Bữa nay nó đau, cho nghỉ... -Vừa đáp Hớn vừa thòng xuống ghe lưới
câu đã buộc thành cuộn.
Ghe lách trên những con kinh ngoằn ngoèo đi ra biển. Nhêm bập thuốc,
tàn cháy hắt ánh đỏ lè lên khuôn mặt xương xương. Lát sau, biển là đây,
đen ngòm, tanh mùi muối. Còn tờ mờ, trời đầy sao, nhấp nháy sáng. Hớn
thình lình hỏi:
- Anh gặp anh Ba chưa?