Tuy vậy, trong giới nào cũng có tai mắt của Tôn-Thất
Thuyết, vì vây cánh của Thuyết cực đông. Cho nên một vị
Án-sát là Tôn-thất Bá ở Bắc-kỳ vô Kinh chỉ nói có một câu : «
Sức người Pháp mười phần, ta chỉ có hai phần » cũng đến tai
Thuyết ngay. Cách mấy giờ sau Tôn-Thất Bá bị bắt, trói và
giam tại ngục Phù-thừa mãi đến khi người Pháp hạ thành Huế
(1885) mở cửa ngục Tôn-Thất Bá mới được ra khỏi.
Không chịu nổi cái không khí chuyên chế của Tôn-Thất
Thuyết, Trần-Tiễn Thành xin cáo về, triều-đình không thuận,
Trần phải từ chức Binh-bộ Thượng-thư, lui về Quốc-sử-quán.
Tôn-Thất Thuyết là một tử thù của nước Pháp. Nhưng
người Pháp đối với Thuyết chỉ có oán với trọng, mà không có
khinh.
Các sĩ quan Pháp dự việc hạ thành Huế hầu hết khen ngợi
lối tổ chức quân đội của Thuyết và nhận rằng quân An-nam
thua là vì khí-giới kém chứ không phải xếp đặt vụng.
Về việc làm của Tôn-Thất Thuyết, lại cũng những sĩ quan
ấy nói : « Những việc bạo-động mà Tôn-Thất Thuyết làm
nhiều khi thúc giục bởi tấm lòng chân thành yêu nước ».
Khi Tôn-Thất Thuyết chết ở Long-châu (1913), người Tàu
viếng ông đôi câu đối sau này : « Thù Nhung bất cộng đái
thiên, vạn cổ phương danh lưu Tượng-quận ; Hộ giá biệt tầm
tĩnh địa, thiên niên tàn cốt ký Long-châu ». Thù ngoài không
đội trời chung, muôn thuở tiếng thơm ghi Tượng-quận
;
Giúp chúa riêng tìm cõi thác, ngàn năm xương bạc gửi Long-
châu.