Garnier đã chiếm được.
Năm 1874, Tường được vua Tự-Đức cho toàn-quyền ký
hòa ước với nước Pháp. Nhân đấy, Tường được người Pháp
tặng Đệ-nhị-đẳng Bắc-Đẩu bội-tinh và vua Tự-Đức phong cho
tước Kỳ-vĩ bá và quyền chức Thượng-thư bộ Hộ, xung Cơ-mật
viện Đại-thần, kiêm cả việc giao-thiệp với nước Pháp cho đến
năm 1881.
Khi vua Tự-Đức băng hà, Tường được đứng đầu hàng
phụ-chánh.
Lần lượt leo đến bậc sau rốt trên bước thang sĩ-hoạn,
Tường tỏ ra là người có mưu-trí, nhẫn nhục và thức thời.
Khi thất thế, bị đuổi về Quảng-trị (1866), Tường làm
công việc của kẻ bị đày ải cũng kiên nhẫn như khi ngồi ghế
Phủ-doãn Thừa-thiên. Cho nên vua Tự-Đức thương mà phục
chức cho ở triều đình Huế.
Mười hai tháng phát lưu ở Quảng-trị giúp cho Tường xem
xét rành mạch nơi này. Khi vua Tự-Đức gia cho Tường xây
thành Tân-sở làm hậu thuẫn cho triều đình Huế phòng gặp sự
biến nguy Tường vẽ kiểu, rồi Tường lại đứng đốc công, không
nề gì khó nhọc.
Chỗ đáng trách hơn hết là Tường đã nhị tâm. Sau khi vua
Tự-Đức mất, người ta ngờ rằng Tường muốn nhờ sức ủng hộ
của quân Pháp mà lập con mình lên làm vua. Nhưng trong
triều còn có các vị hoàng thân có quyền thần và nhất là có
Tôn-Thất Thuyết nên Tường về cánh với Thuyết, cũng chủ
chiến như Thuyết, chủ đích mượn tay Thuyết để trừ những
người có thể làm trở ngại cho việc mình.