Sai Gon par J.Bouchot, tr. 422). 98. Ông
Nguyễn Văn Xuân sinh năm 1857. 99. Vua Tự
Đức trị vì từ năm 1847 đến 1883. 100. Kinh là
kinh đô, cũng gọi là đất Thần Kinh, đất Huế.
101. Tôn Thất là dòng họ nhà vua tức là họ
Nguyễn Phước, con cháu 9 đời chúa Nguyễn,
con cháu 13 đời vua có chữ lót theo bài thơ
Đế hệ thi và bài thơ Phiên hệ thi. 102. Quan
Thượng ở đây chỉ ông Cao Hữu Bằng, người
Thừa Thiên, sinh năm 1799, đậu Cử nhân
năm Ất Dậu (1825), đầu năm 1850 được cử
vào làm Tuần phủ An Giang, rồi thăng lên làm
hộ lý Tổng đốc An Hà (An Giang và Hà Tiên)
cuối cùng làm Tổng đốc An Hà, mất vào tháng
7 năm Kỷ Vị (1859), (Theo Đại Nam Liệt
truyện và Đại Nam Thực lục). 103. Tức là vua
Tự Đức truyền dạy đưa quan tài ông Tổng đốc
Cao Hữu Bằng về Huế. 104. Chưa biết thuộc
huyện nào. 105. Chiêu an: Dỗ dành quân đối
phương hàng phục cho được yên, tức quân
Pháp dỗ dành quân của nhà vua nước Nam.
106. Quan trên của người Pháp chứ không
còn của triều đình Nguyễn nữa. 107. Lang-sa
dịch chữ Français. 108. Tư bề tức là bốn bề.
109. Mười tư tức là mười bốn (14). 110. Trò
biện có lẽ là người học trò của lớp trước dạy
lại cho lớp sau mới vào theo kiểu học chữ
Nho ngày xưa ở Việt Nam. 111. Không hiểu
nghĩa dưng lô là gì! 112. Nhộn nhàn có lẽ là
rộn ràng. 113. Tỷ muội là chị em. 114. Tốt và
xấu. 115. Tuyền là trọn, vẹn. 116. Chung sống
với nhau đầm ấm, sớm tối có nhau, vui buồn