trò trẻ con để chờ mẹ về chợ là mơ ước lớn nhất của đám trẻ con lúc ấy.
Ngoài chạy nhảy, đùa nghịch, nỗi sợ lớn nhất và cũng thích thú nhất của
Lân là những lúc được cha kèm dạy chữ Quốc ngữ. Lên chín tuổi, cậu theo
cha mẹ về sống tại làng Bung trong ngôi nhà nhỏ giữa khuôn viên khoảng
một sào Bắc bộ nhìn ra đình làng Đức Phong cổ kính.
*
Lân còn giữ mãi trong lòng hình ảnh người cha ngày ngày áo lương, khăn
xếp, giầy láng đen đi dạy chữ Quốc ngữ ở hai thôn Đức Phong, Đại Liêu.
Thời ấy, người như cha ông dạy chữ Quốc ngữ được coi là sớm của vùng.
Gia cảnh ông giáo làng không lấy gì làm dư dật, may nhờ mẹ ông làm nông
thêm buôn bán nhỏ lại dựa được vào gia đình bên ngoại nên cuộc sống dẫu
có lúc còn giật gấu vá vai nhưng cũng tạm đủ ăn.
*
Năm 1938, bà Thuận sinh thêm cô con gái nhỏ. Nhà thành sáu miệng ăn.
Mấy năm liền, trời hết hạn lại xoay ra lũ lụt. Vừa năm trước vỡ đê sông
Hồng, năm sau lại vỡ đê sông Thái Bình. Cái khó, cái nghèo như có chân
chạy cứ kéo nhau ập vào nhà ông bà giáo.
Tối ấy, chiêu ngụm chè tươi, ông giáo thở dài nhìn ra khu vườn bên ngoài.
Bóng đêm kéo về, giăng màn trên những tán lá, làm cả khu vườn tối sẫm
như nghiên mực tàu mới mài. Đặt cô con gái nhỏ xuống võng, bà giáo tất tả
với đôi quang thừng, chuẩn bị sắp hàng cho buổi chợ sáng mai:
- Chợ búa dạo này có khá không u nó?
Trước giờ, quen lệ, việc gia đình, nội trợ trông cả vào tay bà, ông chỉ biết
ngày ngày đi dạy học, được đồng nào về đưa cho bà nên câu ông hỏi hôm
nay khiến bà thấp thỏm. Nhìn vào gương mặt có phần hốc hác của chồng,
bà giáo giấu tiếng thở dài:
-Hàng họ hôm đắt, hôm ế... Cả làng đều khó riêng gì nhà mình. Mấy vụ vừa
rồi, lũ lụt liên miên. Cày cấy thì chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa, lại
thêm nay sưu, mai thuế... chắc thầy nó cũng chẳng lạ gì....
Là người kiệm lời, chẳng mấy lúc thể hiện tình cảm qua lời nói, chỉ nhìn