quê quán từng đứa trong lũ “thất trảm" và chia đi các ngả tróc nã. Còn bên
Đăng văn viện lo hoàn tất án văn, để đưa ra xét xử. Lệnh ở các tòa, đài, đô,
sảnh, viện ban ra kín nhẹm. Lính truy nã nhận hỏa bài lên ngựa lưu tinh đi
suốt ngày đêm. Khi trở về đến quê quán được nghe các xã quan bản hạt
trình rằng, bọn họ đều bị treo cổ ở dọc đường. Có kẻ đã về gần tới quê non
mười dặm vẫn còn bị giết. Có đứa bị treo cổ ở ngay La Thành. Tức là chưa
ra khỏi kinh kỳ đã bị bắt đưa lên thòng lọng. Lại nghe nói dân chúng qua
đường, ai nấy đều ném đất, ném đá hoặc những thứ đồ dơ dáy vào thân thể,
mặt mũi kẻ xấu số. Riêng Trâu Canh đã chuyển cả bồ đoàn thê tử về Vân
Đồn và dời chỗ ở tới ba lần, nhưng cũng bị treo cổ như những kẻ kia. Thế
mới biết, không mưu ma kế quỷ nào có thể bưng bít được tai mắt người
dân. Lưới trời thưa nhưng khó thoát là vậy đó.
Cùng với ngày tháng, cái chết của Dụ tông và lũ "thất trảm" làm náo
động kinh kỳ lên một thời gian, rồi mọi sự lại lắng xuống. Bởi người chết
đã an phận, còn người sống vẫn cứ phải tiếp tục sống. Nhưng tới khi triều
đình rục rịch đem Dụ tông đi chôn cất ở Phụ lăng( Vùng lăng mộ các vua
nhà Trần, nay thuộc đất xã Yên Sinh, huyện Đông Triều, Quảng Ninh. Xưa
đất này thuộc lộ Hải Đông, châu Chí Linh. ), mọi sự lại rộ lên như khi nhà
vua vừa mất. Đại khái người ta bàn tán về những cái được, cái hỏng dưới
thời Đại trị của ông, và bè lũ quyền gian mà Chu An đã dâng sớ "Thất
trảm". Tiếc thay, nhà vua mê muội bỏ mất con đường sáng sủa, bỏ mất bề
tôi lương đống, tiết tháo, hóa nên nước hèn, dân bạc.
Bữa cất quan Dụ tông, trời u ám, gió bấc thổi ào ào, rét tái tê. Ấy là tòa
Khâm thiên giám đã xem kỹ tinh tượng và lịch số, chọn được ngày bất
tương. Tức là ngày trời đất không can thiệp vào công việc của con người.
Nhưng sao gió, mây vẫn cứ u uẩn khác thường. Trời giận chăng?
Mờ sáng, lính đã đứng án ngữ từ điện Tịnh Minh ra cổng hoàng thành.
Lại từ hoàng thành đến bến Đông-bộ-đầu cũng rải quân canh nghiêm ngặt.
Đầu giờ Mão, chiêng trống nổi, cửa điện mở toang. Dẫn lộ là lá đại kỳ màu
vàng, tiếp đến là bảy lá cờ ngũ hành rồi minh tinh, phướn, phan, đối,
trướng... Một vị hòa thượng, mặc áo cà sa đại pháp chủ, đội mũ hoa sen, cổ
đeo chuỗi tràng hạt màu hạt dẻ, một tay cầm cây thiền trượng, nạm ngọc,