chuyến bay hôm nay có vất vả không. Không nghe thấy tôi hỏi, trán đầy
nếp răn, Bury cúi gằm xuống đĩa. Trên những chiếc máy bay không mui,
vào lúc trời xấu, phải nghiêng người ra ngoài kính chắn để thấy cho được
rõ, những cái tát của gió còn rít mãi trong tai người lái. Một lúc lâu, anh
mới ngẩng đầu, có vẽ đã nghe thấy, có vẻ nhớ lại và đột nhiên bật lên một
tiếng cười khanh khách. Cái cười ấy khiến tôi kinh ngạc thán phục, vì Bury
ít cười, và cái cười ngắn này làm cho nỗi mệt nhọc của anh như bừng sáng
lên. Anh không giảng giải chút gì nữa về thắng lợi của mình, nghiêng đầu
và tiếp tục yên lặng nhai. Nhưng trong không khí quán ăn mờ xám, giữa
bọn công chức nhỏ không lấy gì làm mỏi mệt lắm đang ăn để lấy lại sức,
người đồng nghiệp hai vai nặng trĩu kia bỗng nhiên đối với tôi có một vẻ
cao quý khác thường: anh đã cho tôi thấy, qua cái vỏ ngoài cục mịch, vị
thiên thần thắng được rồng tinh.
Rồi tới buổi chiều đến lượt tôi được gọi vào phòng chủ hãng. Ông ta
điềm nhiên bảo tôi: “Mai anh đi.”
Tôi đứng yên, đợi ông cho tôi lui. Nhưng, sau một chốc lặng im, ông nói
thêm:
“Anh biết rõ các điều lệnh chứ?”
Các động cơ, thuở ấy, không hề đảm bảo an toàn như các động cơ bây
giờ. Thường khi không báo trước, chúng chơi khăm ném chúng tôi trong
một thứ tiếng loảng xoảng dữ đội, như là bát đĩa vỡ. Thế rồi phải trả tay
phía dãy núi đá Tây Ban Nha, dãy núi này chẳng cho chỗ nào ẩn đậu. “Ở
đây, chúng tôi thường nói, động cơ mà vỡ, thì chiếc máy bay, chao ôi, cũng
sẽ vỡ theo trong chốc lát.” Nhưng một chiếc máy bay, mất chiếc này còn
thay được chiếc khác. Điều quan trọng trước hết là chớ dại dột men theo
rặng núi. Vì vậy, với những răn đe xử phạt rất nặng, người ta cấm chúng tôi
bay trong biển mây mù bên trên các khu núi đá. Máy hỏng, người lái lún
sâu trong đám bông trắng tất va vào các đỉnh núi mà không nhìn thấy.
Vì lẽ đó, chiều hôm ấy, một giọng nói chậm chạp nhay đi nhay lại lằn
cuối vẻ điều lệnh: