“Dùng la bàn để bay qua Tây Ban Nha, ở trên những biển mây, thật là rất
đẹp, rất điệu, nhưng…”
Giọng nói còn chậm chạp hơn nữa:
“… nhưng anh nên nhớ: bên dưới các biển mây ấy là cõi vĩnh hằng.”
Như vậy đó, cái thế giới yên tịnh này, cái thế giới mịn màng thế, giản dị
thế mà tôi khám phá thấy lúc từ trong mây trôi ra, bỗng nhiên đối với tôi có
một cái giá chưa hề biết. Cái dịu dàng này đã trở nên một cạm bẫy. Tôi hình
dung cái bẫy trắng bao la ấy trải ra đó, dưới chân tôi. Bên dưới không như
người ta tưởng, chẳng có nỗi xôn xao của những con người, cũng chẳng có
tiếng xe cộ ồn ào sinh động của các phố phường, chỉ là một nỗi lặng im còn
tuyệt đối hơn, một sự quạnh quẽ còn tuyệt đối hơn. Cái thứ nhựa trắng ấy
đối với tôi trở nên biên giới giữa thực và hư, giữa cái biết và cái không thể
biết. Và tôi đã đoán biết rằng, không nhìn qua một nền văn hóa, một văn
minh, một nghề nghiệp thì một cảnh trí chẳng có chút ý nghĩa gì. Người
miền núi cũng biết những biển mây. Vậy mà nào họ có khám phá ra tấm
màn hư ảo này.
Bước ra khỏi phòng giấy đó, tôi cảm thấy lòng tự hào một cách trẻ con.
Đến lượt tôi, tôi sắp sửa, từ lúc rạng đông, đảm nhiệm một chuyến chở
nhiều hành khách, đảm nhiệm một chuyến thư từ đi châu Phi. Nhưng đồng
thời tôi cũng thấy cực kỳ hổ thẹn. Tồi thấy mình chưa chuẩn bị kỹ. Nước
Tây Ban Nha nghèo nơi ẩn đậu, tôi e, nếu sự hư hỏng vẫn đe dọa kia xảy
tới, sẽ không biết tìm đâu sự tiếp đón của một cánh đồng cứu trợ. Tôi chúi
mũi không tìm thấy những điều giảng giải tôi cần trong các bản đồ khô
khan; như vậy đó, lòng vừa đầy tự kiêu vừa đầy e ngại, tôi qua cái đêm thức
trước ngày ra trận ở nhà bạn tôi, Guillaumet
. Guillaumet đã đi trước tôi
trên con đường này. Guillaumet biết cách để có chiếc chìa khóa của Tây
Ban Nha. Tôi phải được Guillaumet tập dượt.
Thấy tôi bước vào, anh mỉm cười:
“Tớ đã biết tin rồi. Cậu thích chứ?”
Anh đến tủ tìm chai rượu mạnh và hai cái cốc, rồi vẫn tươi cười, quay lại
phía tôi: