Vậy là những bàn tay vô danh xưa kia đã chết, sau khi làm việc cần mẫn,
chỉ còn lại những tác phẩm của họ là thứ vải chijimi hiếm hoi này, thứ vải
đã gây ra sự dễ chịu thích thú đối với những người am hiểu sành sỏi như
Shimamura, bởi nó làm cho da dẻ mát dịu dưới ánh nắng hè. Cái ý nghĩ ấy,
dẫu chỉ tầm thường nhưng anh cảm động như tìm ra được những điều sâu
sắc. Một công việc mà trái tim đã đặt cả tình yêu nào đó, liệu nó có truyền
đi được lời thông báo về lòng dũng cảm của một nỗ lực thuần nhất và lòng
nhiệt thành của một cảm hứng thuần nhất.
Theo dấu vết của con đường thư tín từ thời xa xưa như người ta đã biết,
phố chính của làng chạy thẳng rồi xa dần bởi những ngôi nhà nằm cách xa
nhau và tiếp nối dưới kia với ngôi làng của Komako và cái suối nước nóng.
Ở đây cũng thế, các mái nhà lợp bằng ngói ván, được chẹn lên bằng những
dẫy đá mà anh đã rất quen thuộc.
Để ý thấy những cột chống mái hiên đã hắt bóng lên nền đất, Shimamura
biết đã xế chiều. Chẳng biết xem gì ở đây nữa, Shimamura đáp tàu xuống
một ga khác và anh lại gặp một làng giống hệt cái làng anh gặp lúc đầu tiên.
Anh lại dạo chơi ở đó và khi dừng chân, cảm thấy lạnh trong người, anh ăn
một tô mì ở cửa hàng bình dị trên bờ con sông được hình thành từ dòng thác
chảy xuống trạm nước nóng. Trên một chiếc cầu xa xa, anh nhìn thấy một
hàng đầu trọc đi từng tốp hai, tốp ba: những ni cô, tất cả đều đi dép rơm, vài
người mang trên lưng chiếc nón tu lờ tròn và nhọn cũng đan bằng rơm.
Chắc là họ sau chuyến đi khất thực, họ đang quay về tăng viện, như một
đàn quạ sải cánh bay về tổ.
- Giống đám rước quá! - Shimamura nhận xét.
Người đàn bà đứng trông cửa hàng trả lời anh:
- Tăng viện của họ ở trên cao, chỗ sườn núi! Có lẽ đây là chuyến xuất
hành cuối cùng, bởi khi tuyết đổ, họ không xuống được nữa.