Kia rồi. Số nhà bảy mươi lăm, thùng thư màu đen chỉ dấu cho thấy lối
vào nhà vốn gần như bị che khuất. Tôi bẻ lái thật nhanh và gấp đến nỗi làm
xe xoay ngang, khiến cho Bowie phải kêu ăng ẳng rồi quờ quạng cả bốn
chân để trụ được trên ghế.
Tạ ơn Chúa! Có ánh đèn. Anh đang ở nhà.
Tôi lao sầm sập ra khỏi xe, mở cốp sau xe ra, túm lấy mép bạt và lẳng
cả cái gói đựng gà đó ra ngoài, đoạn liêu xiêu chạy lên mấy bậc cấp, rúm ró
cả lại khi hai ống chân tôi va vào con gà tây.
Ian đã mở cửa ra rồi. “Callie đấy à? Có gì không ổn thế?” anh hỏi.
“Em giết nó mất rồi,” tôi buột miệng, nước mắt lại lăn dài. Lách người
đi qua anh, tôi loạng choạng bước vào căn phòng lớn rồi quăng tấm bạt lên
bàn.
“Em vừa giết một con gà tây.”
“Callie này, tôi ngồi ăn ở chỗ đấy mà,” Ian nói, đưa mắt nhìn đống bạt.
“Mà cô có bao giờ nghe đến bệnh cúm gia cầm chưa hử?”
“Chỉ là một chiêu dọa rồ do chính phủ Bush sử dụng mà thôi – Ian này,
anh có thể khám qua cho nó được không? Phòng trường hợp nó còn sống
ấy? Hoặc là chưa chết hẳn ấy? Làm ơn nhé?” Tôi hít vào một hơi run rẩy, rồi
chạy đến bồn nước để rửa tay. Có thể con gà này không bị cúm gì, mà tôi
cũng không thật sự đụng tay vào nó, nhưng Ian nói có lý.
“Được chứ,” anh vừa nói vừa đi theo tôi vào bếp.
“Nếu nó cần phải được… anh biết mà. Cần phải được xử lý, thì anh có
đồ nghề ở đây không?” tôi rã rời lên tiếng hỏi, chùi chùi hai tay.
“Có.” Ian mở hộc ngăn kéo, lấy ra một đôi găng tay cao su, rồi đưa cho
tôi hộp khăn giấy. “Callie ạ, nếu cô tông vào nó, thì chắc chắn nó chết rồi,”
anh vừa nhẹ nhàng nói vừa mang găng vào tay. “Tông phải xe thì mấy con
gà này không có cơ hội sống đâu.”
Tôi gật gù, nước mắt vẫn đang trào khỏi khóe mắt. Tôi không yêu quý
lũ gà tây gì cho lắm, nhưng tôi cũng chẳng ghét bỏ gì chúng. Và chắc chắn