bước vào xưởng. Dầu sao thì tôi cũng thuộc đường mà.
“Ông ơi?” tôi thì thào. Đuôi con Bowie quật thình thịch xuống sàn nhà,
là tiếng trả lời duy nhất.
Thật chậm rãi, thật cẩn thận, tôi đi đến bàn thao tác trong góc phòng và
rồi, sau một đỗi ngập ngừng, tôi bật ngọn đèn bằng đồng cũ kỹ lên. Ánh
sáng dịu nhẹ từ ngọn đèn quá đủ để soi rọi những gì tôi biết là mình sẽ thấy.
Ông tôi ngồi trên chiếc ghế tựa cũ kỹ của mình, Bowie nằm dài dưới
chân ghế. Chú chó của tôi vẫy đuôi một cái, nhưng nó không đứng lên.
Hai mắt ông nội nhắm nghiền. Hơn lúc nào hết, ông trông giống như
một ông già Noel ốm nhách, tóc và râu bạc trắng, hai bàn tay điệu nghệ, dịu
dàng. Không có vẻ cau có thường ngày, gương mặt ông trông dịu dàng và
thư thái hơn. Những vết chân chim quanh mắt ông… là những nếp gấp khi
ông cười. Ông tôi có một nụ cười tuyệt vời. Ông luôn cố phô ra cái tính cách
ông già bẳn tính, nhưng tôi thì không bao giờ tin – không hẳn là tin lắm.
Một người không thể giấu đi trái tim nhân hậu, dù người ấy có cố đến mức
nào.
Ông nội thật tình trông như đang ngủ. Nghe thì sáo rỗng lắm, nhưng lại
thật an tâm, vì mặc cho tôi từng lớn lên trong một nhà tang lễ, tôi vẫn luôn
sợ người chết.
Bowie lại rên lên. “Mày ngoan lắm,” tôi thì thào. “Ngoan lắm Bowie.”
Tôi dùng tay mình ấp lên bàn tay cứng đờ, lạnh ngắt của ông nội và
quỳ xuống cạnh ghế, nước mắt nóng hổi lăn dài trên mặt. Hẳn là ông đã ở
đây được một đỗi, vì trong xưởng này lạnh lẽo, không có ngọn lửa nào tí
tách trong lò sưởi. Không gian thật im ắng. “Ông ơi,” tôi nói khẽ. “Cháu rất
xin lỗi vì đã không có mặt ở đây.”
“Đừng có ngốc thế,” tôi gần như có thể nghe thấy ông nói.
“Bố mẹ quay lại với nhau rồi đấy ạ,” tôi kể cho ông mình nghe, giọng
nói run run. “Vậy nên ông không cần phải lo lắng cho con trai mình nữa,
ông nhé? Cháu sẽ trông nom Freddie cho. Nó sẽ ổn thôi mà. Chỉ là nó còn