Ngay tối thứ sáu, các tiềm thủy đỉnh đã chiếm các vị trí thám thính quanh
Trân châu cảng. Vị trí gần nhất là tám dặm và vị trí xa nhất là 100 dặm
cách Trân châu cảng. Ba tiềm thủy đỉnh làm thành một hàng trước các mẫu
hạm của Nagumo một trăm dặm. Nếu thấy bóng dáng phi cơ hoặc chiến
hạm Mỹ, các tiềm thủy đỉnh phải lặn ngay, và khi đã an toàn để trồi lên thì
họ phải báo tin về cho Nagumo biết ngay.
Trong cuộc hành quân tấn công Trân châu cảng, lực lượng Nhật may mắn
không gặp một trở ngại nào. Ngay cả thời tiết cuối cùng cũng trở nên thuận
lợi. Một điều bận tâm duy nhất của các tư lệnh Nhật Bản là không biết các
mẫu hạm Mỹ có mặt tại Trân châu cảng hay không. Người Nhật tin rằng ít
nhất có bốn mẫu hạm Mỹ tại Trân châu cảng là những chiếc Yorktown,
Hornet, Lexington và Enterprise. Thực ra hai chiếc Yorktown và Hornet đã
được chuyển sang Ðại Tây Dương, còn hai chiếc Lexington và Enterprise
thì rời Trân châu cảng khi hạm đội của Nagumo tới nơi. Ðó là sự không
may cho hải quân Nhật, vì mục đích chính của Yamamoto là tiêu diệt cho
bằng được các mẫu hạm Mỹ.
Tuy nhiên tại Trân châu cảng vẫn còn những mục tiêu khá hấp dẫn cho các
oanh tạc cơ của Nagumo. Tại Trân châu cảng lúc đó có Hạm đội Thái Bình
Dương của Mỹ gồm có 8 chiến hạm, 2 tuần dương hạm lớn, 6 tuần dương
hạm nhẹ, 29 khu trục hạm, 5 tiềm thủy đỉnh, 1 thuyền máy, 8 khu trục giải
mìn, 1 tàu thả mìn, 4 khu trục hạm vớt mìn, 6 tàu vớt mìn và 24 tàu đủ loại
khác.
Ngày Yamamoto gửi tín hiệu "Trèo Núi Nagata" thì biển Hawaii bình lặng
trở lại và hạm đội của Nagumo dùng cả ngày để tiếp tế nhiên liệu. Khi tất
cả mọi chiến hạm được tiếp tế nhiên liệu xong, các mẫu hạm gia tăng tốc
lực lên 26 hải lý một giờ, và lướt trên một vùng biển bình lặng tới Trân
châu cảng. Nhưng cũng đúng lúc đó, mẫu hạm Mỹ Enterprise cũng rời đảo
Wake để trở về Trân châu cảng.