cho bạn của mình là bác sỹ B, nhưng bác sỹ A tự vấn bằng cách nào mà
trưởng khoa lại biết điều này. Trưởng khoa nói tiếp:
Tôi không nghĩ bác sỹ B đã nhận được bức thư này. Tôi biết thông tin này
từ bác sỹ C, người rất khó chịu và biểu lộ thái độ không hài lòng với việc
anh tự ý lạm dụng hệ thống email bệnh viện. (Bác sỹ A thở sâu và mặt đỏ
dần.) Tại sao chúng ta không cùng xem xét một số điều căn bản về email và
quấy rối để giúp anh rõ hơn vấn đề này nhỉ?
Đầu tiên hãy xem xét đó như một động thái giới hạn nghề nghiệp. Anh đã
khiến một bác sỹ trong bệnh viện này xa lánh mình, một bác sỹ đã bị email
của anh xúc phạm và thấy cần nhanh chóng thông báo cho tôi để khẳng
định rằng cô ấy không muốn nhận được bất cứ email nào như vậy nữa. Tôi
có thể khẳng định rằng từ giờ và thậm chí cả sau nhiều năm nữa, bác sỹ C
sẽ nhớ tên anh, thế nên anh sẽ luôn muốn tránh mặt khi gặp cô ấy.
Thứ hai, anh không nên để bất kỳ thông tin nào trong email với đầu mục
liên quan tới công ty hay tạo ra một dòng tít trên báo chí địa phương. Bởi vì
email không bao giờ mất đi – có thể lấy lại được chúng. Một vấn đề thực tế
là, email cấu thành luật dân sự trong khi DNA cấu thành luật hình sự. Nói
cách khác, người ta có thể lần tìm được nguồn gốc của email. Thậm chí nếu
anh đã xóa email, hoặc làm trống thùng rác trên máy vi tính, hay cao tay
hơn là truy cập và xóa các thông tin trong máy chủ, các siêu dữ liệu đó vẫn
có thể bị dò ra và lần theo đường dẫn tới hòm thư của anh. Các công ty máy
tính rất thích trợ giúp các phi vụ kiểu này. Tuy nhiên, trong các trường hợp
này anh sẽ kháng cáo, và có thể dẫn đến gia tăng nghiêm trọng số tiền bồi
thường, nên tôi muốn anh đừng bao giờ nghĩ đến điều đó.
Cuối cùng, nếu email này không bị gửi sai hòm thư, hãy nghĩ đến những dữ
liệu mà anh đã tạo ra. Nếu bác sỹ C hay ai đó trong ở bệnh viện này muốn
cáo buộc rằng họ đang bị quấy rối, họ có thể phục hồi lại bộ dữ liệu điện tử
mà anh tạo ra với email của mình, và sử dụng nó như bằng chứng chống lại
bệnh viện.