“Ở đây,, tôi nghĩ thầm, “một tâm hồn dịu dàng, mực thước có thể vun
trồng nên một phấn hứng tôn giáo vừa tầm con người. Chẳng phải một đỉnh
cao cheo leo, siêu phàm, cũng không phải một đồng bằng lười nhác, gợi
dục, chỉ vẻn vẹn là cái gì cần thiết cho tâm hồn trở nên cao cả mà vẫn
không mất đi tình thương yêu trìu mến của con người. Một nơi như thế này
sẽ không tạo nên anh hùng, cũng chẳng sản sinh ra loài súc sinh. Nó sẽ tạo
nên con người.”
Một ngôi đền cổ Hy Lạp duyên dáng hoặc một nhà thờ Hồi giáo tươi vui
đặt ở nơi này ắt là hợp. Thượng đế nên mang nhân dạng bình dị, mà xuống
đây, đi chân không qua bãi cỏ xuân và trầm tĩnh chuyện trò với con người.
“Thật huyền diệu! Thật cô tịch! Thật là cực lạc?” tôi thì thầm.
Chúng tôi xuống la, đi qua cửa giữa, lên nhà khách ở đó, người ta mời
chúng tôi một khay rượu raki, mứt và cà phê theo tục lệ cổ truyền. Cha tiếp
tân ra gặp chúng tôi và một lúc sau các tu sĩ xúm quanh chúng tôi, bắt đầu
nói chuyện. Những cặp thắt tinh quái, những đôi môi háo hức, những bộ
râu, ria và mùi nồng nặc của biết bao con dê đực.
- Các ông có mang báo đến không? Một tu sĩ bồn chồn hỏi.
- Báo ư? Tôi ngạc nhiên nói. Ở đây, các cha cần báo làm gì?
- Ông bạn ạ, có báo chúng tôi mới biết được những gì đang xảy ra ở thế
giới dưới kia! Hai ba giọng bất bình cất lên.
Tì vào thành bao lơn, họ quang quác như một lũ quạ Họ sôi nổi nói
chuyện về nước Anh, nước Nga, về Venizelos ([51] ), và đức vua. Thế giới
đã trục xuất họ, nhưng họ vẫn gắn bó với thế giới. Mắt họ còn đầy hình ảnh
những thành phố lớn, những cửa hiệu, phụ nữ, báo chí… Một tu sĩ to béo,
lông lá đứng dậy, khịt khịt mũi.