muối và ủng cho anh em. Thế rồi tôi bắt gặp năm đứa bé trước một ngôi
nhà, tất cả đều vận đồ đen, đi đất, đứa nọ nắm tay đứa kia, dắt nhau đi ăn
xin. Ba gái và hai trai. Đứa lớn nhất không quá mười tuổi, đứa nhỏ nhất còn
phải ẵm ngửa. Đứa con gái lớn nhất bế em, vừa hôn vừa vuốt ve nựng nó
cho nó khỏi khóc. Tôi không biết tại sao, chắc là thần phật xui khiến, tôi
tiến lại chỗ chúng. “Các cháu con ai?” Tôi hỏi bằng tiếng Bulgari.
Thằng bé lớn nhất ngẩng đầu lên: “Con của mục sư. Hôm nọ, cha cháu
bị cắt cổ trong chuồng bò”, nó trả lời. Tôi ứa nước mắt và trái đất bắt đầu
quay như cái cối xay. Tôi dựa vào tường và nó ngừng lại. “Lại đây, các
con”, tôi nói. “Lại gần ta đây.”. Tôi lấy túi tiền ra; trong đó đầy tiền Thổ
Nhĩ Kỳ và những đồng mejidies. Tôi quỳ xuống và đổ hết xuống đất. “Này
lấy đi!” Tôi kêu. “Lấy đi! Lấy đi!”.
Bọn trẻ thụp xuống đất và nhặt tiền. “Của các cháu đấy! Của các cháu
đấy!” Tôi kêu lên. “Lấy hết đi!” Rồi tôi để lại cho chúng cái rổ đựng tất cả
những thứ tôi đã mua. “Tất cả những cái này cũng của các cháu; lấy hết
đi!” Và tôi chuồn thẳng. Tôi rời khỏi làng, phanh áo sơ-mi, nắm lấy cái
hình nhà thờ Thánh Sophia tôi đã thêu, xé tan ra và tung hê, rồi cắm cổ
chạy trốn… Và đến bây giờ, tôi vẫn chạy trốn...
Zorba dựa vào vách và quay về phía tôi.
- Ấy tôi đã được cứu thoát như thế đó, lão nói.
- Cứu thoát khỏi tổ quốc?
- Phải, khỏi tổ quốc, lão nói, giọng rắn rỏi bình tĩnh.
Rồi một lát sau.
- Thoát khỏi tổ quốc, khỏi các thầy tu, khỏi tiền bạc. Tôi đã sàng lọc,
ngày càng sàng lọc bỏ đi nhiều thứ. Bằng cách ấy, tôi làm nhẹ gánh nặng