ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC - Trang 22

xướng như vậy. Bởi lẽ, lập cách hóa độ theo thời, pháp phải phù hợp căn cơ.
Nếu không như thế, chúng sanh chẳng thể đắc độ!

Từ đấy về sau, Phật pháp suy dần, lại thêm quốc gia lắm biến cố, pháp

luân cơ hồ ngừng chuyển. Dù có bậc trí thức ra sức chống chọi, nhưng chẳng
đủ sức, đến nỗi chẳng ai hỏi đến đạo này. Nếu có ai bàn đến pháp này, người
nghe cứ như đang bị làm phiền. May còn có một hai vị Tăng, Tục đại tâm, in
khắc lưu truyền, khiến cho những lời giáo huấn của chư Tổ chẳng bị diệt,
khiến cho người ta được tạm nghe đến thì thật không còn gì may mắn hơn!


* Cho đến khi đại giáo truyền sang Ðông, Viễn công đại sư (tổ Huệ

Viễn) bèn dùng pháp này lập tông. Lúc đầu, ngài muốn cùng đồng học là
Huệ Vĩnh qua La Phù, nhưng bị pháp sư Ðạo An lưu lại. Ngài Huệ Vĩnh bèn
một mình đi trước qua Tầm Dương. Thứ sử Ðào Phạm ngưỡng mộ đạo
phong của Sư, bèn lập chùa Tây Lâm cho Ngài ở. Ðấy là năm Ðinh Sửu niên
hiệu Thái Nguyên thứ hai (377) đời Hiếu Vũ Ðế nhà Ðông Tấn. Ðến năm
Thái Nguyên thứ 9 (Giáp Thân - 384), Viễn công mới đến Lô Sơn.

Thoạt đầu, Ngài trụ tại Tây Lâm, nhưng bạn tu tìm đến quá đông, chùa

Tây Lâm chật hẹp không chứa nổi. Thứ sử Hoàn Y bèn bắt đầu dựng chùa
tại phía Ðông núi, đặt tên là Ðông Lâm. Ðến ngày 28 tháng Bảy năm Canh
Dần (390 - Thái Nguyên thứ 15), Viễn công bèn cùng tăng, tục 123 người,
kết Liên Xã niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, sai ông Lưu Di Dân soạn bài
văn khắc vào đá để minh thệ.

Pháp Sư Huệ Vĩnh cũng dự vào Liên Xã. Vĩnh công sống tại Tây Lâm,

trong gian nhà tranh biệt lập trên đảnh núi. Khi ấy có người đi Thiền hành,
đến bên thất ngài, liền ngửi thấy mùi hương lạ, nhân đó đặt tên là Hương
Cốc (hang thơm) để người khác suy ra thì biết.

Lúc Viễn công mới kết xã, có một trăm hai mươi ba người đều là bậc

long tượng trong pháp môn, Thái Sơn - Bắc Ðẩu trong làng Nho. Do đạo
phong của Viễn công lan tỏa nên đều rủ nhau tìm tới. Nếu tính suốt cả hơn
ba mươi năm trong đời Ngài thì số người dự vào Liên Xã tu Tịnh nghiệp,
được tiếp dẫn vãng sanh rất nhiều không thể tính nổi.

Sau này, các vị Ðàm Loan, Trí Giả, Ðạo Xước, Thiện Ðạo, Thanh

Lương, Vĩnh Minh... không vị nào chẳng như thế cả: tự hành, dạy người.
Ngài Ðàm Loan soạn Vãng Sanh Luận Chú diệu tuyệt cổ kim. Ngài Trí Giả
viết Thập Nghi Luận diễn giải đến tột cùng lẽ được mất. Ngài soạn Quán
Kinh Sớ giảng sâu xa cách quán tưởng đúng đắn. Ngài Ðạo Xước giảng ba
kinh Tịnh Ðộ gần hai trăm lượt. Ngài Thiện Ðạo sớ giải ba kinh Tịnh Ðộ,
cực lực khuyên chuyên tu. Ngài Thanh Lương sớ giải Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Phẩm phát huy đạo rốt ráo thành Phật. Ngài Vĩnh Minh nói Tứ Liệu
Giản chỉ thẳng pháp liễu thoát ngay trong đời này.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.