* Người khác dạy người chú trọng vào chỗ huyền diệu. Quang tôi dạy
người đa phần chỉ dẫn những điều họ có thể tận sức làm được. Nếu chẳng
thể tận sức mình, dù có luận tới tột nguồn, tận đáy của mỗi một pháp trong
Thiền hay Giáo cũng chỉ thành “tam thế chư Phật oan” mà thôi, huống gì
chưa phải là chuyện tột nguồn, tận đáy ư?
* Không tín - nguyện niệm Phật so với tham thiền, khán thoại đầu tuy
công đức lớn hơn, nhưng mình chưa đoạn được Hoặc, sẽ chẳng thể liễu thoát
bằng tự lực! Thêm nữa, không có tín - nguyện chẳng thể được Phật tiếp dẫn
liễu thoát, vẫn là pháp môn thông thường cậy vào tự lực để chứng đạo, thật
chẳng thể dễ dàng. Chớ bảo “tín nguyện cầu sanh” là hèn kém! Hoa Nghiêm
hải hội cùng lấy mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh là chỗ quy kết
cuối cùng cho kinh Hoa Nghiêm. Huống hồ những pháp ngữ, những lời dạy
của các Bồ Tát, Tổ Sư trong Tịnh Ðộ đều chỉ dạy tín nguyện cầu sanh.
* Tuy có mười sáu phép Quán, nhưng hành giả nên bắt đầu từ phép quán
dễ, hoặc là quán tướng bạch hào của Như Lai, hoặc phép quán thứ mười ba
là tạp tưởng quán. Còn như quán về chín phẩm chẳng qua là để hành nhân
biết được tiền nhân, hậu quả của việc vãng sanh mà thôi, chỉ cần hiểu rõ là
được; bất tất phải đặt riêng làm phép quán.
Chẳng thể chẳng biết lý của Quán, về mặt sự của tu quán thì phải hành
từ từ. Nếu như chẳng hiểu rõ mặt lý, quán cảnh chẳng phân minh, dùng tâm
tháo động thô phù để tu, có thể tạo thành ma sự. Tức là khi quán cảnh hiện
tiền, nếu tâm chợt vọng sanh ý niệm vui mừng, sẽ do vui thành chướng, có
thể bị thoái thất cái tâm ban đầu.
Vì thế, kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tâm chẳng cho là cảnh thánh, gọi là
cảnh giới lành. Nếu cho là thánh giải liền vướng quần tà”. Chỉ mỗi cách
Nhất Tâm Trì Danh là hạnh ngàn phần ổn thỏa, vạn bề thích đáng, đợi đến
khi tâm quy nhất, tịnh cảnh sẽ tự hiện tiền.
* Phải biết lý “ Pháp Thân vào trong tâm tưởng” [nói trong Quán Kinh]
rất sâu. Tâm là Phật, tâm làm Phật sự vốn bình thường. Bình thường phi
thường, rất sâu chẳng sâu. Phải viên ngộ mới gọi là “đạt nhân” (người thấu
hiểu). Còn phép quán thứ mười ba là riêng vì chúng sanh căn cơ kém cỏi mở
cửa phương tiện, dạy họ quán thân Phật trượng sáu hoặc tám thước.
Trong phép quán thứ mười sáu, lại dạy những kẻ ác nghiệp nặng nề
xưng danh hiệu. Do xưng danh liền được vãng sanh. Do đấy biết rằng:
Tướng có lớn nhỏ, Phật vốn là một. Chẳng thể quán tưởng, [chỉ cần] xưng
danh liền được lợi ích. Suy nghĩ kỹ điều này sẽ biết một pháp Trì Danh thật