con. Tổng cộng có chín đứa bé và mộ của chúng nằm rải rác trải dài từ
Newfoundland đến Vancouver. Tớ mô tả từng đứa bé một, hình dung cảnh
hấp hối, vẽ ra chi tiết những bia mộ và lời văn bia. Tớ định chôn cả chín
đứa nhưng khi mới xử lý xong có tám thì nguồn sáng tác những chuyện
lạnh xương sống của tớ đã cạn kiệt, thế là tớ cho phép đứa thứ chín sống sót
làm một kẻ tàn tật không hy vọng.”
Trong khi Stella đọc Những ngôi mộ của tôi, đánh dấu những đoạn văn bi
thảm với tiếng cười khúc khích, và Mốc ngủ giấc ngủ của chú mèo vất vả
bôn ba bên ngoài suốt đêm, cuộn mình trên bản thảo câu chuyện của Jane
Andrews viết về một cô gái xinh đẹp mười lăm tuổi đi làm y tá ở một khu
người bị bệnh cùi - đương nhiên là cuối cùng cô nàng cũng chết vì căn bệnh
đáng tởm đó, Anne đọc lướt qua vài bản thảo khác và nhớ lại những năm
tháng cũ ở trường Avonlea khi các thành viên của câu lạc bộ sáng tác ngồi
viết lách dưới gốc vân sam hoặc giữa đám dương xỉ bên dòng suối. Hồi đó
họ chơi vui đến dường nào! Ánh nắng và niềm vui của những mùa hè xưa
cũ chợt ùa về theo từng dòng chữ. Vinh quang Hy Lạp cổ hay Rome xưa
hào nhoáng cũng chưa hẳn có thể dệt nên cảm xúc đầy ma thuật như những
câu chuyện đầy nước mắt buồn cười của câu lạc bộ sáng tác thuở ấy. Giữa
đống bản thảo Anne tìm thấy một truyện ngắn viết trên tờ giấy gói. Nét
cười gợn sóng dâng đầy đôi mắt xám khi cô nhớ lại thời gian và địa điểm
mà nó ra đời. Đó chỉ là vài dòng phác thảo được viết vào ngày cô lọt xuống
mái chuồng vịt nhà Cobb trên đường Bảo Thủ.
Anne liếc qua rồi bắt đầu chăm chú đọc. Đó là một đoạn đối thoại ngắn
giữa cúc tây, đậu hoa, chim bạch yến dại trên bụi tử đinh hương và vị thần
giám hộ khu vườn. Sau khi đọc xong, cô ngồi đăm đăm nhìn vào khoảng
không; và khi Stella rời đi cô vuốt phẳng bản thảo nhăn nhúm.
“Mình tin rằng mình sẽ thành công,” cô thốt lên đầy quyết tâm.