dường như đón mời chàng, chàng cảm thấy cần phải biết rõ khu rừng ấy.
Chàng nhận ra một đồng cỏ gọi cho chàng những ngày trong sáng hồn
nhiên, lúc chàng chưa biết đến tình ái và ghen tuông, cừu hận và trả thù.
Đấy là đồng cỏ mà ngày xưa chàng đã chăn bò với các bạn mục tử trong
khoảng đời an bình nhất của tuổi hoa niên. Một cơn buồn nhẹ lan trong tim
chàng đáp lại tiếng mời gọi của rừng sâu với tiếng lá xạc xào trong gió,
tiếng hát của con suối nhỏ, tiếng chim líu lo và tiếng ong vù vù. Tất cả nghe
như mùi hương mời gọi của mái ấm, nơi an nghỉ. Trong cuộc đời du mục,
chưa bao giờ chàng thấy đồng nội có vẻ thân thiết với mình đến thế. Chàng
lang thang khắp nơi trong khung cảnh thanh bình đó. Lần đầu tiên trong
nhiều tháng ngày kinh khủng, chàng bước đi với tâm hồn rộng mở, không
nghĩ ngợi gì, không ước mong gì, hoàn toàn đặt mình vào hiện tại an tĩnh.
Chàng cảm thấy có mãnh lực gì thu hút chàng vào trong khu rừng bên kia
những đồng cỏ. Khi bước dưới những hàng cây trong bóng chiều, cảm giác
quen thuộc càng tăng, đưa chàng đi dọc theo những con đường nhỏ. Chân
chàng như tự động tìm lối bước tới một rặng dương ở giữa khu rừng rộng,
và gặp gian chòi nhỏ. Trên khoảnh đất trước mặt chòi, đang ngồi bất động
vị ẩn sĩ mà ngày xưa chàng đã đứng nhìn, người mà chàng đã cúng sữa và
bơ dạo ấy.
Dasa ngừng bước, như thể vừa tỉnh giấc. Mọi sự vẫn như trước, ở đây
không có thời gian trôi qua, không có sự giết chóc và đau khổ. Ở đây cuộc
đời và thời gian như thể đông lại thành khối pha lê, ngưng lại thành vĩnh
cữu. Chàng đứng nhìn ông già, cảm nghe trong tim niềm thán phục, yêu
kính mà chàng có khi mới thấy vị ẩn sĩ lần đầu. Chàng nhìn căn chòi và
nghĩ nó cần được sửa chữa trước khi mùa mưa đến. Rồi chàng đánh bạo
tiến thêm vài bước, đi vào trong chòi, nhìn quanh. Rất ít đồ đạc, hầu như
không có gì: một thảm lá, một cái bầu chứa một ít nước, và một cái túi rỗng
đan bằng mây. Chàng lấy cái túi đi vào rừng kiếm ăn, trở lại với một túi trái
cây và mật của vài thứ cây rừng. Đoạn chàng xách bầu đi lấy nước.