vào bà, không còn gì phải giấu giếm, ngay cả ý muốn ngày xưa hết sức
quyết tâm tìm cách giữ gìn cá tính mình.
“Em biết cái tình cảm cha con nơi anh…”
Giọng nói của bà Elinor đậm đà và dịu dàng đặc biệt, mà hồi còn trẻ ông
đã từng ghen tị với các con, vì sợ bà yêu thương chúng hơn mình, và đam
mê không dứt tất cả nhưng gì liên quan đến bà.
Ông nói:
“Anh tự hỏi, con cái có cảm thấy thiếu vắng chúng ta chút nào không?”
“Chắc là không rồi, chẳng vậy thì hóa ra là chúng ta đi giật lùi…”
Ông lại tiếp tục thú nhận:
“Vậy thì, nếu anh không cảm thấy thiếu vắng chúng, đâu có gì là xấu?
Được ở nhà một mình với em, như trước khi chúng mình có con, là một điều
hết sức thú vị.”
Hồi ấy, ông cho tòa nhà là quá rộng và nôn nóng muốn thấy con cái đông
đúc trong nhà. Nhưng bây giờ ông không còn cảm giác như thế nữa, có thể
vì những xuất hiện nho nhỏ, vui vui, mà ông có thể hình dung ra bất cứ lúc
nào. Đời sống đã được sống ở đấy, và sẽ tồn tại ở đấy. Nhưng Elinor và ông
rất khác xa với những cặp vợ chồng trẻ vừa gia nhập vào đây. Chúng lại phải
trực diện với cuộc sống của chúng, nhưng cuộc sống đó sẽ ra sao? Khi con
cái ông ra đi, ông có phần nào do dự, không biết những đôi vợ chồng trẻ yêu
nhau sẽ đối xử với nhau thế nào khi trở về già. Ông tự hỏi, sự nhiệt tình đổi
mới này có làm vui lòng bà không, nhưng ông tin tưởng nơi bà. Sự an ủi của
ông là ở chỗ đó. Ông biết có những người chồng sợ già với vợ họ. Ông cảm
thấy mình được ưu đãi trong cuộc sống chung với bà. Sự ưu ái này không
phải đến do tình yêu của ông đối với bà mà thôi, nhưng bởi vì cách suy nghĩ
của họ trùng hợp nhau. Bà không có vẻ gì là một người đàn bà trí thức, bà
không quan tâm gì đến những vấn đề luật pháp, chính đó là điều ông cảm
kích, nhưng những phán đoán của bà lại chân thành, cách bà đề cập đến con
người thật là độc đáo, sống động, và hơn nữa, bà không dối trá bao giờ.
“Em có cảm thấy thiếu vắng con cái không?” Ông hỏi. Câu hỏi này ông
đã có sẵn trên môi, song ông không dám nói ra.