dàng trong mấy tháng hè, nhất là khi các cô cậu đã về đủ mặt, thể nào chúng
tôi cũng cần cô giúp đỡ đôi chút.”
Cô thoáng có được chút vui mừng, không tương xứng với hy vọng mong
manh của cô.
“Ôi, con xin cảm ơn Ngài Asher,” cô nói.
Và cô chắp hai bàn tay mảnh mai của cô lại trong một dáng điệu phấn
khởi, sung sướng.
“Cô cũng biết, đây chưa phải là một lời hứa,” ông nhắc.
“Vâng, con cũng hiểu vậy,” cô đáp.
Ông rảo bước đến thư phòng, quên hẳn Jessica khi ông nghĩ đến cảnh đồi
trụy phô bày khắp thành phố. Cuối ngày ông có nhớ lại, nhưng sự kiện có vẻ
là trò trẻ con, có thuật lại cho bà cũng vô ích. Đã từ lâu ông hiểu được sự
bình an trong gia đình đến từ những gì quên đi hơn là từ những gì giữ lại. Bà
Elinor có thế phật ý vì chuyện Jessica xin trở lại làm việc như trước một
cách quái lạ này, nó còn làm phật ý bà Bertha, một con người quan trọng.
Ông không quên hẳn được, vì cách mấy ngày, khi bà Elinor báo tin lễ cưới
của Jessica đã gần kề, thì ông bảo, ông không đến được. Đúng như vậy. Dù
thế nào, ông cũng khó có mặt ở nhà, nhất là vào lúc hai giờ. Ông nói:
“Em thân yêu, tuần này anh không xa rời thành phố được. Sáng thứ hai
anh phải đi sớm, em chỉ gặp lại anh sau ngày thứ sáu hay thứ bảy. Anh đang
chuẩn bị hồ sơ cho vụ án. Không có anh, các người khác không làm được,
anh không thể nào đến dự lễ cưới, cho dù đó là lễ cưới của Susan, con gái
của chúng ta.”
Bà Elinor nói:
“Bà Bertha sẽ bất bình đấy! Con cái chúng ta cũng chẳng có đứa nào có
mặt. Anh chị em của em thì lang thang đây đó, em cũng chẳng biết tại sao.
Em muốn lũ con mình đừng bắt chước họ, nhưng em đoán chừng dì Emma
sẽ có mặt.”
Ông nói với giọng nhẹ nhàng hơn:
“Anh tiếc rằng, biết đâu chính chồng em cũng lang thang như thế.”
Ông thuật lại cho bà nghe những lời Jessica nói cũng dễ dàng thôi, nhưng
ông thấy vô ích, vì ông chỉ bị cô tớ gái tâm tánh thất thường làm dao động