200 mét, được thiết kế bằng thép và tường bê-tông ở hai bên và cửa kẹp
kim loại ở mỗi đầu. Cửa van thượng lưu đang mở tung. Cửa van hạ lưu
cũng mở, nhưng bị cả một cái xà lan mắc kẹt ở ngay chính giữa. Phía trên
hai cửa van và bức tường chắn là một lối đi hẹp bằng sắt. Bầy cá chết ngửa
bụng trôi lềnh phềnh trên mặt nước bên dưới âu tàu. Mùi xú uế bốc lên
nồng nặc, giống hệt hồi bố tôi đi câu mang về nhà một mớ cá vược, sau đó
moi ruột cá và để nguyên trong thùng rác suốt 3 tuần liền làm nó thối um cả
nhà lên. (Thực ra tôi được phân công đi vứt rác nhưng quên mất.)
“Bọn mình định đi qua bên kia bằng cách nào? Tôi hỏi.
“Có dây thừng mà. Bọn mình sẽ trèo xuống cái xà lan kia.”
“Nhưng mà từ mép xà lan lên đến bờ tường cũng phải đến chục mét.
Làm sao chúng ta trèo lên được phía bên kia của âu tàu.” Từ chỗ chúng tôi
đứng trông khoảng cách giữa bờ tường và sàn xà lan có vẻ khá xa. Chưa kể
cái sàn bằng kim loại vừa cứng vừa nghiêng.
“Cứ tùy cơ ứng biến.”
Chúng tôi trèo tiếp qua một hàng rào nữa rồi men theo cái lối đi hẹp chạy
dọc âu tàu. Tay ôm ván trượt, chúng tôi xoay một góc 45 độ để bước lên
nóc cửa van. Tro bụi và tuyết lọt qua các chấn song rơi xuống dưới gần hết
nhưng không có nghĩa là lối đi đó không trơn trượt. Tôi có chút lo lắng khi
ngoài một cái hàng rào sắt thấp lè tè chẳng có gì che chắn giữa tôi và
khoảng không bên dưới, phen này trượt chân rơi xuống thì chỉ có nước chết.
Đi hết cửa van, chúng tôi dừng lại ngay trên đầu cái xà lan bị mắc kẹt.
Darla lấy cuộn dây thừng ra khỏi balô của tôi, buộc vào mấy cái ván trượt
rồi hạ chúng xuống sàn xà lan. Một tiếng keng vang lên chát chúa. Kế đó,
cô ấy buộc một đầu dây thừng vào thanh ngang trên cùng của tay vịn và đu
dây từ từ tụt xuống.