Thật khó để phân biệt đâu là bãi cỏ, đâu là lối vào và đâu là bãi đậu xe
của nhà thờ. Tất cả đều phủ một màu tro xám xịt. Cây cối dọc hai bên
đường cũng đang oằn mình dưới sức nặng của tro bụi núi lửa, dù nhìn thế
nào cũng không còn ra màu xanh của lá. Bên ngoài nhà thờ, bốn chiếc xe ô
tô và một chiếc xe buýt bị chôn vùi dưới lớp tro bụi dày nửa mét.
Laura dắt chúng tôi đi vào qua cánh cửa có mái che ở bên hông của nhà
thờ. Tôi cởi giày ra khỏi ván trượt và dựng chúng cạnh tường. Spork cố
gắng rũ bụi trên người và giày, nhưng Laura bảo không cần thiết vì đằng
nào mọi người cũng sắp rời khỏi đây.
Ai đó đã để lại một cây nến vẫn đang cháy tại nơi cầu nguyện. Nhờ thế
mà tôi có thể quan sát được phía bên trong nhà thờ, khá hiện đại với tấm
thảm đỏ tươi và các băng ghế dài bằng gỗ sồi. Chúng tôi lần theo vệt tro
xám trắng trải dài trên thảm ra phía sau của nhà thờ và đi lên cầu thang dẫn
ra một ban công nhỏ.
Từ ban công, chúng tôi lại leo thêm một cái cầu thang dốc hơn nữa. Phải
mất một lúc tôi mới nhận ra là mình đang leo lên tháp chuông, bởi vì không
hề thấy có sợi dây treo lủng lẳng nào ở giữa để kéo chuông. Có lẽ họ sử
dụng chuông điện tử hoặc không còn dùng đến chuông nữa. Rất nhiều ô cửa
sổ nhỏ được xây dựng dọc hai bên tường nhưng bầu trời bên ngoài quá tối
để ánh sáng có thể lọt vào trong tháp chuông. Tôi vịn chặt lan can, chậm rãi
leo từng bậc thang. Tối thế này mà trượt chân rơi xuống thì chỉ có chết.
Chúng tôi leo thêm chừng 5-6 bậc nữa rồi dừng lại trước cánh cửa sập trên
trần nhà. Laura đẩy của lên và hiện ra trước mắt tôi là một khoảnh sân nhỏ
nằm ngày bên dưới mái vòm của tháp chuông.
Cái sân rộng chưa đầy hai mét vuông càng trở nên nhỏ bé và chật chội
khi mà có tới ít nhất 20 người đang chen chúc nhau ở trên đây. Bốn bức
tường của tháp chuông đều để hở để đón gió và ánh sáng. Thứ duy nhất giữ
cho chúng tôi khỏi lộn nhào xuống dưới là một cái lan can thấp tè bằng