cho mấy con ngựa pony; hôn và vuốt ve mũi của những con chó su đáng
yêu; và rồi tất cả rộn lên, tuôn chảy, lao ra và bơi. Nhưng những nguồn lực
lớn lao của tiếng Anh, sức mạnh mà nó ban tặng, nói cho cùng, của những
cảm giác giao tiếp (ở lứa tuổi của họ, bà và Peter sẽ tranh cãi suốt buổi tối),
không phải dành cho họ. Họ sẽ củng cố tuổi trẻ. Họ sẽ tốt ngoài mức đo
lường đối với mọi người trong điền trang, nhưng cô đơn, có lẽ, khá buồn
nản.
“Thật đáng tiếc!” Bà nói. “Tôi đã hy vọng có khiêu vũ.”
Họ cực kỳ tốt bụng khi đã tới! Nhưng nói về vụ khiêu vũ! Căn phòng đã
chật ních.
Có bà cô già Helene choàng tấm khăn. Ôi chao, bà phải rời khỏi họ –
ngài Gayton và Nancy Blow. Kia là cô Parry già, cô của bà.
Vì cô Parry già chưa chết: cô Parry già còn sống. Bà đã quá tám mươi.
Bà chậm chạp xuống thang với một cây gậy. Bà được đặt vào một cái ghế
(Richard đã lo chuyện đó). Những người đã từng biết Miến Điện hồi thời
thập niên bảy mươi luôn được dẫn tới gặp bà. Peter đã đi đâu rồi nhỉ? Họ
từng là những người bạn tuyệt vời. Vì khi nhắc tới Ấn Độ, hay thậm chí
Ceylon
, đôi mắt của bà (chỉ có một là mắt thủy tinh) dần lắng sâu
xuống, trở nên xanh biếc, nhìn thấy, không phải là những con người – bà
không có những hồi ức êm đềm, không có những ảo tượng tự hào về những
vị tổng trấn, những vị tướng lĩnh, những cuộc binh biến – thứ mà bà nhìn
thấy là những chùm phong lan, những con đèo và chính bà được cõng trên
lưng của những người cu li thời thập niên sáu mươi qua những chỏm núi
quạnh hiu; hay đang đi xuống để nhổ phong lan (những chùm hoa tuyệt
diệu, chưa từng thấy trước đó) mà bà đã vẽ bằng màu nước; một phụ nữ
Anh bất khuất, cáu kỉnh, nếu bị cuộc chiến quấy rầy, chẳng hạn, đã thả một
quả bom xuống ngay cửa nhà bà, từ sự mặc tưởng sâu xa về những chùm
phong lan và chính con người bà đang du hành trong thập niên sáu mươi ở
Ấn Độ – nhưng Peter đây rồi.
“Hãy tới nói chuyện với cô Helena về Miến Điện.” Clarissa nói.
Thế nhưng ông ấy chưa nói lời nào với bà suốt buổi tối nay!