tưởng thôi: vay ai được? Đó là một sự thực tế.
Xôlômông Bôritxôvich là một chất men rất hữu ích cho tập thể cần lao của
chúng tôi. Chúng tôi biết cái lô-gich của bác ta thuộc một thế giới khác và
nó buồn cười thật đấy, song cái năng động tính của nó vui vẻ đập tan nhiều
thành kiến và, do phản ứng, nó đòi hỏi phải có một phong cách làm việc
khác hẳn.
Việc đưa công xã Dzecjinxki vào đường kinh doanh sinh lợi đã được tiến
hành rất giản dị, hầu như không tốn công sức gì, thậm chí cũng chẳng khiến
chúng tôi thấy đó là một thắng lợi quan trọng đến thế nữa. Xôlômông
Bôritxôvich đã chẳng phải là nói hão:
- Cái gì chứ? Một trăm rưởi công xã viên mà không kiếm ăn nổi ư? Có thể
như thế nào khác được? Họ cần có rượu sâm-banh chắc? Hay là vợ họ thích
trưng diện hẳn?
Do nỗ lực chung lớn lao các công xã viên đã hoàn thành liên tiếp các kế
hoạch sản xuất của chúng tôi. Các nhân viên Tsêka hàng ngày đến công xã.
Cùng với bọn trẻ, họ đi sâu vào từng chi tiết nhỏ nhặt, từng sơ hở nhỏ nhặt,
phản đối những khuynh hướng làm “ẩu” của Xôlômông Bôritxôvich, phản
đối chất lượng sản xuất kém và phế phẩm. Kinh nghiệm sản xuất mỗi ngày
một thêm phức tạp phong phú, các công xã viên bắt đầu có thái độ phê phán
day dứt đối với Xôlômông Bôritxôvich, khiến bác nổi giận:
- Chuyện mới mẻ nhỉ? Bây giờ chúng đi thông thạo đủ thứ! Chúng nói cho
tôi nghe ở xưởng đầu máy xe lửa Kháckôp người ta làm như thế nào, chúng
có hiểu được tí gì về những cái người ta làm ở ngoài ấy không chứ?
Một khẩu hiệu, được nhất trí công nhận, bỗng soi sáng đường đi của chúng
tôi: “Chúng tôi cần có một nhà máy thật sự”.
Càng ngày chúng tôi lại càng nói nhiều đến nhà máy. Những số tiền hàng
ngàn rúp cứ chất đống dần lên ở tồn khoản vãng lai của chúng tôi, thì những
ước mơ chung về nhà máy lại càng rõ nét chi tiết trên những viễn cảnh gần
gũi nhất và dễ thực hiện nhất. Song chuyện đó mãi sau này mới tới.