cầm và tiếng hạ âm của thất huyền cầm xuyên qua cân não họ như những
hòa âm luôn luôn mới lạ và bất ngờ. Rồi lễ thánh cử hành.
Không phải tất cả những người điên đều cùng hành lễ. Một số lớn ngồi ở
những dãy ghế sau cùng không động đậy như chìm đằm trong tang chế nếu
không phải là họ đang ở trong một thế giới khác của Đấng Cứu Thế. Dường
như họ đang nghe một thứ âm nhạc tuyệt vời hơn tiếng phong cầm. Mà
cũng có thể chẳng nghĩ tới gì cả... dửng dưng, như biển lớn, như thiên nhiên
và cõi chết. Những cái đầu đó có lẽ đang hiểu được điều gì, đang nhìn thấy
hay đang nghĩ ngợi tới nhưng không thể tiết lộ thiên cơ. Phải chăng họ là
những người cuối cùng trên tháp Babel, không thể truyền thông cảm nghĩ
cho nhau giữa những cơn bão tổ?
Tôi nhìn hàng ghế đầu. Bên phải, tôi nhận ra bóng dáng mảnh khảnh của
Isabelle đang quỳ gối, người giữ thẳng, đầu hơi nghiêng qua một bên vai
như pho tượng Gô-tích. Chúng tôi bắt đầu giờ của phép lạ. Bánh và rượu
sắp biến thành máu và thịt của đấng Chirst. Cũng giống như phép lạ biến
bụi đất thành con người. Tuy nhiên, theo Riesenfield thì phép lạ thứ ba
chính là con người biết chắc chắn là sẽ chết. nhưng trước khi tới đó, họ đã
phí thì giờ, mưu mô và sức lực để khai thác đồng loại đến tận xương tủy,
loại trừ những kẻ họ không ưa thích, làm như họ sẽ sống đời đời. Đó là lời
của Riesenfield, đại điện của hãng “đá hoa cương Odenwald”, một trong
nhũng tổ chức hút máu nhiều nhứt của nghề làm mộ bia, dựng tháp cho
người chết.
Sau buỗi lễ, các dì phước dọn cho tôi một bữa lót dạ theo giao ước: canh,
trứng, thịt, bánh và mật. Nhờ bữa ăn này tôi có thể khỏi ăn trưa vì phiếu
khẩu phần ăn của nhà hàng Edouard không có giá trị vào ngày Chúa Nhật.
Ngoài ra, tôi còn được lãnh một ngàn Đức kim, vừa đủ để trả tiền di chuyển
bằng xe điện. Tôi không bao giờ đòi thêm. Tại sao? Tôi vẫn chưa rõ lắm.
Thế mà đối với lão chủ tiệm giày Karl Brill và nhà sách Bauer, tôi hung
hăng như quỷ.